Chủ Nhật, 20 tháng 5, 2012

Warren Buffet học làm giàu như thế nào?



Ngay từ khi còn nhỏ, trong khi các bạn vô tư chơi đùa thì trong đầu óc em bé Warren Buffett đã suy nghĩ làm sao trở nên giàu có.


Bất chấp mọi đổi thay, câu lạc bộ top 10 đại gia giàu nhất hành tinh có 2 vị trí vẫn sừng sững không đổi chủ. Chiếm ngôi đầu bảng không ai khác ngoài trùm Microsoft với phong độ 50 tỉ USD. Giữ vị trí á quân và đầy tiềm lực là nhà đầu tư lão luyện Warren Buffet (44 tỷ USD). Doanh nhân "thất thập cổ lai hy" này vẫn không chịu nhường bước cho lớp trẻ mà tiếp tục bền bỉ sánh bước cùng Bill Gates trong bảng "vàng”.

Warren Buffett cho rằng sống giàu có mà không được yêu mến thì chỉ là sống cô đơn.

Học


Từ thời hồi niên thiếu, Warren Buffet đã ham mê những con số đến múc ghi nhớ dễ dàng các kết quả tính toán. Lên tám, Buffet đã bất đầu đọc các tác phẩm viết về thị trường chứng khoán (TTCK) của ông cụ thân sinh mình. Khi được 11 tuổi, ông chú ý tìm hiểu bảng niêm yết giá ở Harris Upham, nơi cha ông làm nghề môi giới. Trong năm đó, lần đầu tiên trong đời, ông mua cổ phiếu (CP) của Công ty Citries Sennce Preferred.

Ở tuổi 13, Buffet đã làm công việc giao báo cho hai tờ Washington Post và Washington Times Herald. Bằng số tiền tiết kiệm được, ông mua các máy chơi bắn bi tân trang với giá 25 đoạt mỗi chiếc rồi đặt ở các tiệm cắt tóc gần nhà. Chẳng bao lâu, Buffet làm chủ 7 máy và đem về gia đình mỗi tuần 50 USD. Sau đó cùng với một người bạn Trung học, Buffet mua được một chiếc Rolls Royce đời 1934 với giá 350USD và đem cho thuê mỗi ngày 35 USD. Vào thời gian ông tốt nghiệp Trung học lúc 16 tuổi, đã dành dụm được 6000USD.
Trong năm học cuối ở viện Đại học Nchraska, Buffet đã đọc cuốn "The Inteuigent Investor", một tác phẩm kinh điển của Benjamin Graham. Ông này tin rằng nhà đầu tư tính toán chính xác được giá trị đích thực của một Công ty để mua CP theo giá thấp hơn nó sẽ dễ làm giàu. Chính phương pháp toán học này đã đánh thức năng khiếu tính toán của Buffet. Sau khi đậu bằng Master về kinh tế học ở Đại học Columbia, Buffet quay về Omaha làm công việc đúc kết tin tức cho Công ty môi giới của cha ông.
Năm 1954, theo lời mời của Graham, ông chuyển đến New York làm việc cho Công ty Graham-newman Corp. Suốt thời gian làm việc ở đây, Buffet hoàn toàn bị lôi cuốn bởi phương pháp đầu tư của vị thầy thông thái. Ngoài Buffet, Graham còn thuê thêm Waller Schloss, Tomkapp và Bill Ruane.
Năm 1956, Công ty Graham-newman giải thể vì Graham lúc ấy đã 61 tuổi nên quyết định nghỉ hưu. Buffet lại quay về Omaha. Trang bị kiến thức đã lãnh hội được từ Graham cùng với hậu thuẫn về tài chính của gia đình và bè bạn, Buffet khai trương Công ty hợp doanh đầu tư trách nhiệm hữu hạn lúc 25 tuổi. Công ty khởi sự hoạt động với bảy hội viên trách nhiệm hữu hạn cùng góp vốn được 105.000USD. Còn Buffet là hội viên chịu trách nhiệm chung, góp 100USD vào vốn liếng hoạt động của Công ty. Các hội viên TNHH hàng năm nhận được 6% trên vốn đầu tư của họ và 75% doanh lợi vượt mức vừa kể, còn Buffet chỉ nhận được 25% khoản doanh lợi vượt mức này. Hơn 13 năm sau, Buffet tích lấy được khoản tiền bằng số vốn ban đầu nhân với tỷ lệ kép hàng năm 29,5%. Trong thời gian điều hành Công ty hợp danh này, Buffet không chỉ thực hiện các nghiệp vụ đầu tư nắm quyền sở hữu ở các Công ty mà còn đầu tư nắm quyền kiểm soát ở một số Công ty vô danh quy mô lớn cũng như nhỏ nữa.
Năm 1961, ông mua lại Demspster Mill Manufacturing Company, một Công ty sản xuất thiết bị nông nghiệp và năm 1962 ông bắt đầu mua CP của một Công ty dệt đang èo uột là Berkshire Hathaway. Đến năm 1965, tài sản của Công ty hợp danh (partnership) đã tăng lên đến 26 triệu USD.
Năm 1969, Buffet quyết định chấm dứt hoạt động Công ty hợp danh đầu tư. Khi Công ty hợp danh khởi sự hoạt động, Buffet đề ra mục tiêu vượt chi số Dow Jones mỗi năm trung bình 10 điểm. Thế mà từ năm 1957 đến 1969, ông đã vượt chỉ số này - mỗi năm không chi 10 điểm mà đến 22 điểm! Khi Công ty giải thể, các nhà đầu tư đều được chia phần đầy đủ. Ngoài ra, một số nhà đầu tư đã được đào tạo về trái phiếu địa phương (Municipal bonds), còn những người khác được hướng dẫn thành quản trị viên tài chính. Nhân vật duy nhất được Buffet tiến cử là Bill Ruane. Thế là Ruane chấp nhận quản lý tài chính cho một số hội viên cũ và như vậy Sequoia Fund (Quỹ cây tùng) được khai sinh. Các hội viên khác của Công ty hợp danh, kể cả Buffet đều đầu tư phần vốn liếng của họ vào Berkshire Hathaway. Phần vốn liếng của Buffet ở Công ty hợp danh đầu tư cũ đã tăng lên đến 25 triệu USD và khoản tiền ấy giúp ông đủ sức nắm quyền điều hành Công ty Berkshire Hathaway. Suốt hai thập niên sau đó, tài sản của Buffet lẫn Berkshire đều tăng vọt.

Đam mê kinh doanh


Ngay từ khi còn nhỏ, trong khi các bạn vô tư chơi đùa thì trong đầu óc em bé Warren Buffett đã suy nghĩ làm sao trở nên giàu có. Lúc 6 tuổi Warren đi bán soda từng nhà đế kiếm tiền cho dù có cha là một đại biểu liên bang và cũng là một nhà đầu tư Ngân hàng. Sau đó cậu và các bạn dùng toán tìm cách thắng trong các trận cá độ đua ngựa bằng cách bán những lời khuyên. Dĩ nhiên họ bị cấm vì không có giấy phép. Vào lúc 11 tuổi cậu mua stock (chứng khoán) của Cities Service với giá 38USD Mỹ/share (cổ phiếu) nhưng rồi stock này xuống giá còn 27 đô Mỹ và khi nó lên lại tới 40 đô Mỹ cậu vội vàng bán "chạy làng".

Tuy nhiên stock này thời gian sau liên tục lên giá tới $ 200/share. Cậu học được một bài học nhớ đời: phải kiên nhẫn trong đầu tư. Lớn tuổi hơn, cậu đầu tư vào đất đai, quản lý những đường dây giao báo, đặt máy pin-balls (đá banh bàn) tại những hiệu hớt tóc đế kiếm tiền cho đến khi vào Đại học.

Sống đơn giản liêm khiết


Tuy là một người giàu có nhưng Warren sống trong một căn nhà chỉ trị giá 31.500 USD Mỹ đã mua hơn 40 năm nay, mặc áo quần bình thường, ăn uống bình dân như mọi người. Ông uống Coca Cola, ăn kẹo See’s Candy và ít người biết ông là người giàu nhì thế giới. Trong khi những CEO khác sống đế vương với tiền lương nhiều triệu dollars, vô số tiền thưởng cùng nhiều phụ cấp linh tinh khác, Warren khiêm tốn lĩnh lương của một CEO hàng đầu thế giới với mức lương 100.000 USD Mỹ/năm.

Tính ông đâu ra đó, có một lần con gái ông, Susie hỏi mượn 20 USD Mỹ tiền mặt để trả tiền parking trong sân bay và ông đã yêu cầu cô phải ký check trả lại mình. Vào những năm của thập niên 1990, suy thoái đạo đức của các ngành tài chính trên đà gia tốc. Ông luôn luôn lên án việc gian lận sổ sách chứng từ.Để ngăn ngừa tình trạng trên, ông chọn những cộng sự viên có đạo đức làm việc quanh mình . Đặt "thành thật và liêm khiết" lên hàng đầu khi phỏng vấn tuyển chọn nhân viên, ông luôn tụ hỏi, "Nếu người này làm con dâu hay con rể thì mình có đồng ý không"?

(Theo Tạp chí Trí Tri)

Không có nhận xét nào:

Flag Counter