Ông chủ tập đoàn bán lẻ Wal-Mart, Sam Walton, đã từng khởi nghiệp chỉ với vài đồng xu trong túi.
Năm 2001, Kmart với hệ thống hàng chục nghìn cửa hàng bán lẻ
đã tuyên bố phá sản, chỉ còn lại một mình "người khổng lồ" Wal-Mart
trụ lại. Ông chủ tập đoàn bán lẻ Wal-Mart ,Sam Walton, đã từng khởi nghiệp chỉ
với vài đồng xu trong túi.
"Tôi không biết điều gì khiến người ta có tham vọng,
nhưng thực tế là tôi đã được trời phú cho động cơ và tham vọng bẩm sinh",
Sam Walton nói về mình như vậy. Sam Walton tốt nghiệp Trường Đại học Missouri vào tháng
6/1940 với bằng kinh doanh, và ông đã làm việc cật lực như đã làm trong suốt
cuộc đời.
"Tôi luôn tràn đầy năng lượng, nhưng tôi cũng thấy mệt.
Từ khi vào trung học, tôi đã tự làm ra tiền và tự mua quần áo cho mình. Tại
trường đại học, tôi chi thêm tiền học, tiền ăn, các khoản hội phí và tiền chi
cho các cuộc hẹn hò. Bố mẹ tôi sẽ rất vui lòng giúp đỡ tôi nếu có thể, nhưng đó
là thời kỳ đại khủng hoảng và họ không có thêm một khoản tiền nào.
Tôi phải tiếp tục công việc đưa báo trong thời học trung
học, và vào đại học tôi phải đi đưa thêm một số tuyến đường mới, thuê một vài
người giúp đỡ, và biến nó thành một việc kinh doanh tương đối tốt. Tôi kiếm
được khoảng 4.000 đến 5.000 đôla mỗi năm, khoản tiền mà vào cuối thời kỳ đại
khủng hoảng là tương đối lớn.
Ngoài việc đưa báo, tôi còn làm phục vụ bàn để đổi lấy đồ
ăn, và tôi cũng đứng đầu đội cứu hộ bể bơi. Bạn có thể thấy tôi là người khá
bận rộn, và bạn có thể hiểu được tại sao tôi ngày càng tôn trọng giá trị đồng
đô la. Nhưng giờ đã đến lúc tốt nghiệp đại học, và tôi đã sẵn sàng từ bỏ những
công việc này, để thực sự háo hức bước ra ngoài thế giới và tự tạo ra một giá
trị nào đó cho bản thân mình bằng một công việc thực sự.
Lần đầu tiên cơ hội bán lẻ đến với tôi vào năm 1939, khi gia
đình tôi chuyển đến ở cạnh nhà một người đàn ông tên là Hugh Mattingly. Ông
từng là thợ cắt tóc ở Odessa, Missouri trước khi cùng với những anh em của mình
bắt đầu phát triển một hệ thống có tới 60 cửa hàng vào thời điểm đó. Tôi có thể
nói chuyện với ông về việc buôn bán, về cách thức tiến hành, và kết quả kinh
doanh. Ông rất quan tâm đến tôi và sau đó thậm chí còn đề nghị tôi làm việc cho
ông ta.
Nhưng vào lúc đó, tôi không quan tâm một cách nghiêm túc tới
công việc bán lẻ. Thực ra, tôi đã tin chắc là mình sẽ trở thành một người bán
bảo hiểm. Cha người bạn gái của tôi tại trường trung học là một nhân viên bán
bảo hiểm rất thành công của Công ty Bảo hiểm Nhân thọ Mỹ, và tôi đã nói chuyện
với ông về công việc kinh doanh đó. Đối với tôi dường như ông đã làm ra tất cả
tiền trên thế giới, bảo hiểm dường như là một thứ thích hợp hiển nhiên đối với
tôi vì tôi nghĩ rằng tôi có thể bán nó.
Tôi buôn bán mọi thứ. Khi còn là một đứa trẻ, tôi bán tạp
chí Liberty (Tự Do) giá một đồng 5 xu, và sau đó chuyển sang tờ Woman’s Home
Companion (Cẩm nang gia đình của phụ nữ) khi tờ đó bán chạy hơn để lấy một hào,
và nhận ra rằng tôi có thể kiếm được gấp đôi. Mặc dù tôi và bạn gái chia tay,
nhưng tôi vẫn có nhiều kế hoạch lớn.
Tôi dự định rằng mình sẽ lấy bằng và theo học tại Đại học
Tài chính Wharton ở Pennsylvania.
Nhưng khi nhắc đến đại học, tôi nhận ra rằng cho dù vẫn duy trì việc bán báo để
cho việc học thì tôi cũng không đủ tiền để học tại Wharton.
Vì vậy, tôi quyết định đầu tư vào những gì mình đã có và đi
theo hai nhà tuyển mộ, những người đã đến các trường học ở Missouri. Cả hai người đều mời tôi làm việc
cho công ty của họ. Tôi chấp nhận lời đề nghị của công ty JC Penney và bỏ qua
lời đề nghị từ công ty Sears Roebuck. Giờ đây, tôi nhận ra một sự thật đơn
giản:\ tôi đã trở thành người bán lẻ vì quá mệt mỏi và muốn có một việc làm.
Công việc diễn ra khá thuận lợi - ba ngày sau khi tốt nghiệp
(ngày 3/6/1940) tôi đến nhận công việc tại cửa hàng JC Penney tại Des Moines, Iowa,
và bắt đầu làm nhân viên quản lý tập sự với mức lương 75 đôla một tháng. Đó là
ngày tôi gia nhập nghề bán lẻ, và ngoại trừ thời gian phục vụ trong quân đội
thì tôi đã ở trong nghề này suốt 52 năm.
Có thể tôi được sinh ra để trở thành một thương gia, có thể
đó là số phận. Tôi không biết nhiều về những điều đó, nhưng tôi chắc chắn về
điều này. Tôi yêu thích nghề bán lẻ ngay từ đầu và đến tận bây giờ tôi vẫn yêu
thích nó. Tuy nhiên, không phải ngay lập tức mọi việc đã diễn ra suôn sẻ như
vậy.
Như đã nói, tôi có thể bán hàng, và tôi yêu thích công việc
bán hàng. Không may là tôi đã không bao giờ tập viết cẩn thận. Helen nói rằng
chỉ có khoảng năm người trên thế giới có thể đọc được chữ viết như gà bới của
tôi và bà ấy không thuộc số đó. Điều này bắt đầu gây khó khăn cho tôi trong
công việc mới.
Ở Penney có một nhân viên đến từ New York tên là Blake chuyên đi khắp đất
nước để kiểm toán các cửa hàng, đánh giá nhân sự và những việc linh tinh khác,
và ông ta gặp chúng tôi khá thường xuyên. Ông ta rất khó chịu vì tôi đã làm rối
tung các hóa đơn bán hàng và thường nhầm lẫn số đăng ký hàng hóa. Tôi không thể
để một khách hàng mới phải đợi trong khi lãng phí thời gian với đống giấy tờ về
số hàng mà tôi đã bán và phải thừa nhận là nó đã gây ra nhiều rắc rối.
Ông Blake sẽ nói khi đến Des Moines sẽ gặp tôi: “Walton, nếu cậu không
phải là một nhân viên bán hàng giỏi như vậy, có lẽ tôi đã sa thải cậu. Có thể
cậu chỉ đơn giản là không được sinh ra để bán lẻ mà thôi”.
May mắn thay, tôi đã tìm được một nhà vô địch trong cửa hàng
nơi tôi làm. Đó là nhà quản lý Duncan Majors, một người có khả năng tạo động
lực tuyệt vời và có niềm tự hào là đã đào tạo nhiều quản lý viên của Penney hơn
bất kỳ ai trên nước Mỹ. Ông có kỹ thuật riêng của mình và là một nhà quản lý
rất thành công. Bí quyết của ông là có thể khiến chúng tôi làm việc từ 6h30
sáng đến 7h hoặc 8h tối. Tất cả chúng tôi đều muốn trở thành quản lý viên như
ông.
Vào chủ nhật khi không phải làm việc thì chúng tôi, cả tám
người đều là nam giới đến nhà ông. Tất nhiên chúng tôi sẽ nói chuyện về bán lẻ
và chơi bóng bàn hoặc chơi bài. Đó là một công việc làm cả tuần. Tôi nhớ vào
một ngày chủ nhật, Duncan Majors lĩnh séc thưởng hàng năm của Penney và khoe nó
ở khắp mọi nơi. Khoản tiền thưởng khoảng 65.000 đôla đã gây ấn tượng mạnh tới
chúng tôi. Việc được nhìn người đàn ông này làm việc làm tôi thấy phấn khích
với công việc bán lẻ. Ông thực sự rất giỏi.
Hồi đó có một điều hay là ngài James Cash Penney thường đích
mình đến thăm cửa hàng. Ông không qua lại các cửa hàng thường xuyên như tôi vẫn
làm sau này, nhưng ông cũng có đi lại. Tôi vẫn nhớ ông đã chỉ cho tôi cách buộc
và đóng gói hàng hóa, bọc hàng với những sợi dây và những tờ giấy tuy nhỏ nhưng
nhìn vẫn đẹp.
Tôi làm việc cho Penney khoảng 18 tháng, và theo những gì
tôi biết, họ đã thực sự là đầu tàu của ngành này. Nhưng hồi đó tôi đang trong
quá trình tìm kiếm sự cạnh tranh. Bộ phận tôi làm việc tại Des Moines có 3 cửa
hàng, do đó vào giờ ăn trưa tôi đi lang thang tới các cửa hàng của Sears và
Yonkers để xem họ làm gì.
Đến đầu năm 1942, khi chiến tranh vẫn đang diễn ra, là một
người đã tốt nghiệp ROTC, tôi hăng hái tình nguyện, sẵn sàng vượt biển và thực
hiện nghĩa vụ người lính của mình. Nhưng quân đội là một điều ngạc nhiên lớn
đối với tôi. Do có khuyết tật nhỏ về tim, tôi không đủ tiêu chuẩn về thể lực để
tham gia chiến đấu mà chỉ được giao những nhiệm vụ hạn chế.
Loại công việc này làm tôi chán nản và do chỉ muốn được gọi
đi chiến đấu nên tôi đã bỏ việc tại Penney và chuyển xuống phía nam, về hướng
Tulsa với ý niệm mơ hồ là muốn xem công việc kinh doanh dầu lửa ở đây như thế
nào. Nhưng tôi lại nhận được việc làm tại nhà máy thuốc súng khổng lồ Du Pont
tại thị trấn Pryor, bên ngoài Tulsa.
Căn phòng duy nhất tôi có thể tìm được nằm ở phía trên Claremore. Đó là nơi tôi
gặp Helen Robson vào một đêm tháng Tư tại một sân chơi bowling rồi chúng tôi
yêu nhau.
Cha của Helen là một luật sư, một chủ nhà băng, một chủ
trang trại nổi tiếng, và Helen thấy chúng tôi cần phải sống độc lập. Tôi đồng ý
với Helen, và tôi nghĩ cơ hội tốt nhất của chúng tôi là ở St.Louis. Khi chúng
tôi tới St.Louis, một người bạn cũ của tôi, Tom Bates cũng muốn gia nhập vào
ngành kinh doanh cửa hàng bách hóa.
Tôi biết Tom, khi chúng tôi còn là những đứa trẻ tại
Shelbina - cha của cậu ấy sở hữu cửa hàng bách hóa tổng hợp lớn nhất thị trấn
còn Tom và tôi là bạn cùng phòng ở Beta Theta Pi tại Missouri.
Sau khi giải ngũ, tôi tìm gặp Tom ở St. Louis. Cậu ta đang làm việc tại cửa hàng
giày của nhà Butler Brothers. Butler Brothers là hãng bán lẻ tầm cỡ khu vực với
hai hệ thống: Federated Stores, một hệ thống các cửa hàng bách hóa nhỏ, và Ben
Franklin, một hệ thống các cửa hàng tạp hóa mà trước đây chúng ta thường gọi
“Năm xu và Một hào” (những cửa hàng bán quần áo và đồ gia dụng nhỏ với giá 5 và
10 xu) hoặc các “cửa hàng 10 xu”.
Tôi nghĩ Tom đã có một ý tưởng tuyệt vời. Cậu ta và tôi sẽ
trở thành đối tác, mỗi người góp 20.000 đôla, và mua một cửa hàng bách hóa
Federated tại đại lộ Del
Mar ở St.Louis. Helen và tôi có khoảng 5.000 đôla, và tôi biết rằng chúng tôi
có thể vay số còn lại từ cha của Helen, người luôn tin tưởng và ủng hộ tôi. Tôi
đã chuẩn bị tất cả để trở thành một chủ sở hữu cửa hàng bách hóa tại một thành
phố lớn thì Helen nói ra suy nghĩ và đặt ra quy tắc của mình.
Vì vậy, các thành phố với dân số trên 10.000 người là ngoài
phạm vi của nhà Walton. Nếu bạn biết một chút về chiến lược thành phố nhỏ ban
đầu đã đưa Wal-Mart phát triển suốt hai thập kỷ sau đó, thì bạn có thể thấy
rằng đây là sự sắp đặt sẵn cho những gì phải đến. Helen thậm chí còn nói rằng
không cần đối tác vì như vậy quá rủi ro.
Gia đình cô cũng đã phải đối mặt với một số quan hệ đối tác
xấu đi, và cô kiên quyết cho rằng con đường duy nhất là tự kinh doanh một mình.
Do vậy, tôi trở lại với Buler Brothers để xem họ còn gì khác cho tôi không.
Cái họ có là cửa hàng tạp hóa Ben Franklin tại Newport,
Arkansas - một thị trấn chỉ có bông và đường sắt với khoảng 7.000 dân, tại đồng
bằng sông Mississippi, phía Đông Arkansas. Tôi nhớ là mình đã đi đến đó bằng
tàu hỏa từ St. Louis
mà vẫn mặc quân phục với thắt lưng Sam Browne và đi tới phố Front để xem qua
cửa hàng mơ ước này.
Một người đến từ St.
Louis đã sở hữu nó nhưng công việc kinh doanh của ông
ta đã không đi tới đâu. Ông ta thua lỗ và muốn bán mọi thứ đi càng nhanh càng
tốt. Tôi nhận ra rằng tôi là gã khờ mà Butler Brothers gửi đến để cứu ông ta.
Tôi mới chỉ hai mươi bảy tuổi và đầy tự tin, nhưng tôi không
biết điều đầu tiên cần làm là định giá những đề xuất kiểu này nên đã nhảy vào
vụ mua bán ngay lập tức. Tôi mua cửa hàng với giá 25.000 đôla, trong đó có
5.000 là của tôi, còn 20.000 thì vay từ cha của Helen. Sự ngây thơ của tôi về
hợp đồng và những thứ tương tự lúc đó đã gây nhiều rắc rối cho tôi sau này.
Tất nhiên chỉ sau khi hoàn tất vụ mua bán tôi mới thấy rằng
cửa hàng đó thực sự vô dụng. Nó có doanh thu khoảng 72.000 đôla một năm, nhưng
tiền thuê chiếm 5% doanh thu - điều tôi nghĩ là có vẻ tốt - nhưng hóa ra lại là
mức thuê cao nhất trong ngành kinh doanh tạp hóa. Không ai trả 5% doanh thu để
thuê cửa hàng. Và nó còn có một đối thủ cạnh tranh lớn - cửa hàng Sterling bên
kia đường với một nhà quản lý tuyệt vời, John Dunham, với doanh số 150.000 đôla
một năm, gấp đôi cửa hàng của tôi.
Mặc dù rất tự tin song tôi chưa từng có một ngày kinh nghiệm
trong việc quản lý một cửa hàng tạp hóa. Do vậy, Butler Brothers gửi tôi đến
cửa hàng Ben Franklin tại Arkadelphia,
Arkansas để đào tạo trong hai
tuần. Sau đó, tôi tự mình đứng trên đôi chân của mình và chúng tôi mở cửa hàng
vào ngày 01/09/1945.
Tôi sẽ không bao giờ quên một vụ làm ăn với Harry, một trong
những vụ làm ăn tốt nhất tôi từng có và là một bài học đầu tiên về định giá. Đó
là điều đã làm tôi lần đầu tiên nghĩ về phương hướng của thứ cuối cùng trở
thành nền tảng triết lý kinh doanh của Wal-Mart. Nếu bạn quan tâm đến vấn đề
“làm thế nào mà Wal-Mart đã làm được điều này” thì đây là một câu chuyện mà bạn
phải ngồi thẳng lên và chú ý lắng nghe.
Harry bán quần lót phụ nữ - loại sợi đan, hai vạch có phần
thắt eo bằng dây chun - với giá 2 đôla một tá. Tôi đã mua loại tương tự của Ben
Franklin với giá 2,5 đôla một tá và bán chúng với giá 1 đôla ba chiếc. Còn với
giá của Harry, chúng tôi có thể bán với giá 1 đôla bốn chiếc và tạo ra một đợt
khuyến mãi lớn cho cửa hàng của chúng tôi.
Đây là bài học rất đơn giản mà chúng tôi đã học được - bài
học mà những người khác cũng học được và cuối cùng đã làm thay đổi cách thức
các nhà bán lẻ bán hàng và cách thức khách hàng mua hàng trên toàn nước Mỹ. Tôi
thấy rằng bằng cách định giá 1 đôla, tôi có thể bán được nhiều gấp ba lần so
với việc định giá 1,2 đôla. Tôi có thể chỉ còn được một nửa lợi nhuận từ một
chiếc nhưng do tôi bán được nhiều gấp ba lần nên tổng lợi nhuận lớn hơn nhiều.
Mọi thứ bắt đầu tiến triển nhanh chóng theo chiều hướng khá
tốt tại Newport
trong một thời gian rất ngắn. Chỉ sau hai năm rưỡi, chúng tôi đã trả lại được
20.000 đôla vay của bố Helen và tôi cảm thấy rất hài lòng vì điều này. Thế nghĩa
là công việc kinh doanh đã tự đứng vững và tôi hình dung được là chúng tôi đã
thực sự đi trên con đường của mình.
Chúng tôi đã thử nhiều biện pháp khuyến mãi và chúng có tác
dụng tốt. Trước tiên, chúng tôi đặt một chiếc máy rang ngô bên ngoài vỉa hè và bán
rất chạy. Do đó, tôi đã suy nghĩ rất nhiều và cuối cùng quyết định rằng cần đặt
ở đó một chiếc máy làm kem nữa. Tôi lên dây cót lòng can đảm của mình và đi tới
nhà băng để vay một khoản tiền 1.800 đôla (vào thời điểm đó đây là một món tiền
rất lớn) để mua chiếc máy này.
Đó là lần đầu tiên tôi vay tiền nhà băng. Sau đó, chúng tôi
đưa chiếc máy ra vỉa hè bên cạnh chiếc máy rang ngô, với mong muốn thu hút được
sự chú ý. Đây là một biện pháp mới lạ, một thử nghiệm khác, và chúng tôi thực
sự thu được lợi nhuận từ chúng. Chúng tôi hoàn trả được 1.800 đôla trong hai
hoặc ba năm, và tôi cảm thấy rất tuyệt vời. Tôi thực sự không muốn người ta nhớ
đến như một kẻ mất sạch cơ nghiệp chỉ vì một chiếc máy làm kem.
5 năm đầu tiên ở Newport
đã trôi qua và tôi đã thực hiện được mục tiêu của mình. Cửa hàng Ben Franklin
nhỏ của tôi đã có được doanh số 250.000 đôla và đem lại 30.000 tới 40.000 đôla
lợi nhuận trong một năm. Đó là cửa hàng Ben Franklin số một về doanh số và lợi
nhuận, không chỉ ở Arkansas
mà ở toàn bộ vùng sáu bang. Nó là cửa hàng tạp hóa lớn nhất tại Arkansas, và tôi không
tin là có một cửa hàng nào lớn hơn tại ba hay bốn bang lân cận".
Dưới bảng hiệu Wal-Mart, có hai dòng chữ sau này trở thành
phương cách làm việc nổi tiếng: “Chúng tôi bán với giá thấp hơn” và “Đảm bảo
thỏa mãn khách hàng”. Trong cuộc đời kinh doanh sóng gió của mình, Sam vẫn giữ
vững phương châm ấy.
"Tôi không bao giờ là người dừng bước trước bất hạnh,
và khi đó tôi cũng không dừng bước. Người ta thường nói rằng bạn có thể tìm ra
sự may mắn ở bất kỳ mọi sự rủi ro nào nếu bạn cố gắng thực sự. Tôi luôn nghĩ
rằng khó khăn chỉ là những thách thức, và thách thức trong tay cũng khá đơn
giản để giải quyết: tôi phải tự nâng mình dậy và xoay xở với tình thế, làm lại
tất cả từ đầu, thậm chí lần này phải tốt hơn", Sam nhấn mạnh.
Theo Diễn đàn doanh nghiệp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét