Thứ Tư, 20 tháng 6, 2012

Huỳnh Bích Ngọc - "Nữ hoàng" ngành mía đường

Bà cùng lúc là Chủ tịch HĐQT hai công ty, một trong những phụ nữ VN giàu có tiếng trên sàn CK và mẹ hai doanh nhân trẻ Đặng Hồng Anh, TGĐ Sacomreal và Đặng Huỳnh Ức My, TGĐ Cty CP SX-TM Thành Thành Công.
Bà Huỳnh Bích Ngọc và con trai Đặng Hồng Anh
Thân thiện, chân chất, giản dị, mới gặp ít ai nghĩ bà cùng lúc là Chủ tịch HĐQT hai công ty, là một trong những phụ nữ Việt Nam giàu có tiếng trên sàn chứng khoán và là mẹ của hai doanh nhân trẻ Đặng Hồng Anh, Tổng giám đốc Sacomreal và Đặng Huỳnh Ức My, Tổng giám đốc Công ty CP Sản xuất - Thương mại Thành Thành Công.
Đối diện với bà, càng ngạc nhiên hơn khi trong bà luôn song hành hai tính cách trái ngược: Mạnh mẽ, quyết đoán, đã muốn làm gì là phải làm bằng được mới thôi, nhưng lại có một trái tim đa cảm, nhân hậu. Vừa bắt đầu cuộc trò chuyện, bà nói ngay: “Mình rất ngại xuất hiện trên báo chí, nhưng lần hẹn này vì cũng có đôi điều trăn trở về tình hình kinh tế hiện nay”.
* Cụ thể những trăn trở ấy là gì, thưa bà?
- Chủ trương kìm chế lạm phát, thắt chặt tín dụng cộng với lãi suất tăng cao từ 20 - 25% như hiện nay khiến nhiều doanh nghiệp (DN) gặp khó, bởi rất nhiều DN cần vốn hoạt động nhưng với mức lãi suất cao như vậy, DN phải làm ra lợi nhuận 40 - 50% mới đủ trả lãi và trang trải nhiều chi phí khác.
Đặc biệt, ở lĩnh vực bất động sản, thực sự cũng có nhiều dự án người dân đang cần, đó là những căn hộ cho người có thu nhập trung bình, nhưng DN bất động sản bị hạn chế tiếp cận nguồn vốn, dẫn đến thị trường căn hộ trầm lắng, thì không chỉ các DN kinh doanh bất động sản gặp khó mà hàng loạt DN sản xuất vật liệu xây dựng phục vụ theo bất động sản cũng bị ảnh hưởng. Và khi DN kinh doanh không hiệu quả thì tất nhiên ít nhiều ảnh hưởng đến nền kinh tế.
Theo tôi, chính sách mới nên có tính toán dài hạn, vĩ mô hơn trong tổng thể và phải có thời gian cho DN chuẩn bị, thích nghi với những chính sách này. Chứ đưa ra đột ngột như hiện nay thì DN sẽ không xoay xở kịp.
* Còn ở lĩnh vực mía đường chắc bà cũng muốn chia sẻ nhiều điều?
- Ba mươi hai năm theo nghề, điều tôi trăn trở là làm sao ngành đường phát triển bền vững và cạnh tranh được với các nước lân cận về giá thành và chất lượng. Vì khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, mức thuế áp dụng cho xuất và nhập khẩu không chênh lệch bao nhiêu.
Vậy nên nếu giá đường Thái Lan rẻ hơn thì mình không cạnh tranh lại. Thực tế, ngành đường đang phải đối mặt với nạn nhập lậu đường. Trong cuộc cạnh tranh không cân sức này, ngành đường trong nước gặp khó khăn và Nhà nước thất thu thuế nhiều lắm.
Với chương trình “Một triệu tấn đường” Chính phủ đưa ra cho ngành đường là một chủ trương đúng đắn, giúp giải quyết bài toán cân đối tiêu dùng đường cho quốc gia, giảm ngoại tệ nhập đường và giải quyết việc làm cho nhiều lao động.
Tuy nhiên, vẫn thiếu một chiến lược ổn định và bền vững nên thời gian qua ngành đường vẫn còn tình trạng lúc thừa, lúc thiếu, DN không yên tâm sản xuất. Hiện nay, chúng ta vẫn nói khó khăn lớn nhất của ngành sản xuất đường là nguyên liệu, một số nhà máy không có vùng nguyên liệu ổn định.
Song, theo tôi, nếu các nhà máy có chiến lược phát triển cụ thể, nỗ lực nhiều hơn nữa và mạnh dạn vay vốn đầu tư vùng nguyên liệu để hoạt động lâu dài, cộng thêm được Nhà nước và các tổ chức liên quan hỗ trợ thì bài toán này vẫn giải quyết được. Bởi thực tế các nhà máy tôi đang quản lý như Ninh Hòa, Bourbon Tây Ninh, nguyên liệu vẫn đủ dù công suất nhà máy rất cao.
Bà Huỳnh Bích Ngọc - Chủ tịch của Thành Thành Công và Bourbon Tây Ninh

* Biệt danh “Nữ hoàng đường” là do bà quản lý quá nhiều công ty đường hay do yêu mến mà nhiều người gọi bà như vậy?
- Chắc là do tôi kinh doanh ngành đường quá lâu, gần 32 năm, nên nhiều người gọi tôi như vậy. Nhưng thực sự tôi không dám nhận biệt danh này. Suốt thời gian theo nghề kinh doanh đường, tôi chỉ tâm niệm làm cho thật tốt, đem lại nhiều sản phẩm cho xã hội. Và càng làm, tôi càng tâm huyết.
Hễ có vướng mắc là tôi mất ăn mất ngủ, bất kể nắng mưa, sớm tối, dù ở đâu tôi cũng đích thân đến tận nơi để tìm cách tháo gỡ. Rồi có dự án nào khả thi, chương trình nào có lợi cho ngành, cho nghề và cho nhà máy là tôi theo đuổi, tìm đủ mọi cách để đi đến đích.
Tôi cũng là người luôn đi đầu trong việc áp dụng những cách làm mới, hướng đi mới để nâng cao năng lực không chỉ cho nhà máy của tôi mà cho cả ngành đường. Vì vậy, nhiều người còn nói đùa “trong máu của tôi cũng có đường”.
Được mọi người gọi như thế, tôi rất vui và tự thấy trách nhiệm cao hơn, đó là làm sao để nông dân trồng mía có lãi, các nhà máy sản xuất đường có lời và không còn tình trạng đường nhập lậu.
* Từ một nhà phân phối đường trở thành Chủ tịch HĐQT hai công ty đường, đồng thời mua cổ phần của một số nhà máy đường khác, làm thế nào bà thành công nhanh như vậy?
- Vừa là hưởng ứng chủ trương của Chính phủ về việc cổ phần hóa, vừa xuất phát từ tâm huyết và lòng yêu nghề nên tôi luôn hướng đến kinh doanh với hai chữ tâm và tín. Có thể nói, cơ duyên đến với nghề đường của vợ chồng tôi đơn giản là vì mưu sinh.
Lúc đó kinh doanh mật rỉ đường là nghề của dì anh Thành (ông Đặng Văn Thành - Chủ tịch HĐQT Sacombank), thế là chúng tôi thành lập cơ sở Thành Công sản xuất kinh doanh cồn, CO2 và mật rỉ đường dùng trong sản xuất bột ngọt, cồn, men thực phẩm, chế biến thức ăn gia súc...
Thời gian đầu, cơ sở Thành Công do một mình chồng tôi quản lý, tôi chỉ làm thủ quỹ và nội trợ. Năm 1991, khi anh ấy quyết định chuyển sang lĩnh vực mới là ngân hàng, tôi mới thay anh quản lý tiếp và sau đó là sự ra đời của Thành Thành Công.
Nhiều năm làm trong lĩnh vực phân phối, tôi có rất nhiều khách hàng, đặc biệt nhờ chữ tâm và chữ tín, tôi được nhiều bạn hàng, đối tác tin cậy. Vì vậy, khi một số nhà máy đường cổ phần hóa, họ mời tôi làm đối tác chiến lược.
Trong quá trình quản lý, nhìn thấy nhu cầu của ngành đường còn rất lớn, cơ hội còn nhiều, tiềm năng cũng không ít. Thế nên tôi đã mạnh dạn mua cổ phần của Nhà máy Đường Ninh Hòa và trở thành cổ đông lớn với 51% vốn điều lệ.
Với thế mạnh là phân phối cùng với tiềm lực tài chính, Thành Thành Công đã giúp Đường Ninh Hòa phát triển vùng mía nguyên liệu và nâng công suất nhà máy lên hơn 2,5 lần. Năm 2010, lợi nhuận trước thuế của Đường Ninh Hòa vượt mức 100 tỷ đồng. Đây là lợi nhuận cao nhất của Đường Ninh Hòa từ trước đến nay.
* Trước khi ông Jacques de Chateauvieux, Chủ tịch Tập đoàn Bourbon (Pháp), chọn Thành Thành Công để nhượng lại Công ty Mía đường Bourbon Tây Ninh cũng có nhiều công ty đề nghị bà mua cổ phần nhưng bà từ chối, vậy tại sao bà lại nhận lời mua lại Bourbon?
- Sau Ninh Hòa, Thành Thành Công cũng bỏ vốn vào một số công ty đường khác như La Ngà, Phan Rang, Biên Hòa với tỷ lệ sở hữu từ 4 -22% vốn điều lệ. Không ít DN khác cũng chào mời nhưng nói thực, tôi không dám đầu tư vì nếu mở rộng quy mô, quản trị không theo kịp thì cũng rất rủi ro.
Sở dĩ tôi đồng ý mua lại Bourbon Tây Ninh vì Bourbon là công ty nước ngoài, việc họ chọn mình là một niềm vui, niềm hãnh diện rất lớn, chứng tỏ Thành Thành Công đã có uy tín trên thương trường và tạo được sự tin cậy với đối tác.
Hơn nữa, Bourbon là công ty đầu tư 100% vốn nước ngoài, họ có hệ thống dây chuyền thiết bị đồng bộ nhập từ Pháp, hiện đại nhất Việt Nam nên không chỉ ưu thế về công suất nhà máy 8.000 TMN (tấn mía cây/ngày) mà còn cả chất lượng đường thành phẩm.
* Nhiều đồng nghiệp trong ngành đường rất ngạc nhiên thấy vụ 2010 - 2011 Bourbon Tây Ninh đã lập được nhiều kỷ lục, nhưng khi hỏi “bí quyết” giúp làm được như vậy, bà chỉ cười. Vậy bây giờ bà có thể chia sẻ đôi điều về thành công này được không, thưa bà?
- Kỷ lục đầu tiên của Công ty Bourbon là vụ 2010 - 2011, sản lượng mía ép đạt 920.000 tấn cộng với 20.000 tấn đường thô nguyên liệu và đã sản xuất ra 101.000 tấn đường tinh luyện, một con số mà chưa nhà máy nào đạt được và cũng hơn 15 năm qua, Bourbon cũng không làm được.
Những vụ trước đó, Công ty chỉ ép được khoảng 600.000 tấn mía với 60.000 tấn đường sản xuất. Một kỷ lục nữa là trước đây, Công ty chỉ phát được 40.000 MWH nhưng từ khi tôi quản lý đã phát được 50.000 MWH.
Có được thành công này, theo tôi là nhờ vụ 2010 – 2011 thời tiết thuận lợi nên sản lượng mía tăng và thiết bị nhà máy hiện đại, đội ngũ nhân sự giỏi. Song, yếu tố quan trọng nhất là nhờ cách quản lý mới, nỗ lực rà soát những cái chưa tốt để điều chỉnh phù hợp.
Chẳng hạn, trước đây xe giao mía đến nhà máy phải chờ đợi, mỗi thời điểm trong ngày có khoảng 200 xe đến 300 xe đậu chờ cân tương đương 4.000 tấn đến 5.000 tấn mía tồn trên sân.
Nhưng khi trực tiếp quản lý, tôi sắp xếp lại khoa học hơn, yêu cầu mỗi ngày mía chỉ tồn trên sân từ 1.000 tấn đến 1.200 tấn và chặt mía không quá 48 giờ để đưa ngay vào sản xuất. Vì nếu mía đốn lâu như trước đây sẽ giảm lượng đường có trong cây mía. Chỉ cần chỉnh một chút mà công ty đã thu thêm được là 24 tấn đường/ngày.
Ngoài ra, việc chấn chỉnh này còn giải quyết được nhiều tệ nạn do các tài xế trong lúc chờ đợi giao hàng tạo ra như vừa mất an ninh, vừa uống rượu say dễ gây tai nạn. Khi được sắp xếp hợp lý, tai nạn không còn. Mặt khác, khi không còn thời gian tụ tập, tài xế còn tăng chuyến, tăng thu nhập.
Với cải tiến nhỏ đó, cùng với cách quản lý khoa học, doanh thu 6 tháng đầu năm, Bourbon Tây Ninh đạt 1.014 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt 314 tỷ đồng.
* Không riêng bà, nhiều phụ nữ làm chủ DN cũng rất thành công, theo bà, phụ nữ làm kinh doanh có điểm gì khác biệt so với nam giới?
- Không có gì khác biệt, nhưng phụ nữ được Trời phú cho sự nhạy bén, sắc sảo, tuy hơi thận trọng nên đôi lúc cũng bị mất cơ hội và chậm chân hơn đồng nghiệp, nhưng đã quyết làm thì sẽ làm được, và bước đi của họ luôn mang tính ổn định, bền vững.
Từ bản thân, tôi cũng nghiệm ra, phụ nữ làm kinh doanh còn có đức tính chăm chỉ, kiên nhẫn, nhất là cần kiệm, chắt chiu, có một muốn góp thành hai nên dễ tích tiểu thành đại, ít mạo hiểm “phóng” tay cho những khoản đầu tư quá tầm kiểm soát, vì vậy hạn chế được nhiều rủi ro. Mà trong kinh doanh, quản trị được đồng vốn cũng là yếu tố mang lại hiệu quả cao cho DN.
Tôi cũng muốn nói thêm, phụ nữ làm kinh doanh cực hơn nam giới rất nhiều vì phải cân bằng giữa gia đình và công việc, giữa thiên chức làm vợ, làm mẹ với vai trò người lãnh đạo công ty. Để có được sự cân bằng này là một áp lực lớn, đôi lúc phải chấp nhận hy sinh.
* Vậy bà đã phải hy sinh điều gì chưa?
- Cho đến bây giờ, điều hạnh phúc và may mắn nhất đối với tôi không phải là giàu có, địa vị, mà là một gia đình rất hạnh phúc, con cái ngoan ngoãn, hiếu thảo và thành đạt.
Hồi trước, khi hai cháu Hồng Anh và Ức My chưa trưởng thành, tôi bị khá nhiều áp lực vì anh Thành rất coi trọng việc học hành của các con, anh nói: “Mình thành công bao nhiêu mà con cái không học hành đến nơi đến chốn thì chẳng có ý nghĩa gì”. Và anh giao trách nhiệm này cho tôi, thậm chí bảo tôi nếu không cáng đáng nổi thì không nên làm kinh doanh nữa.
Mặc dù công việc của anh còn nhiều trăn trở hơn tôi vì là Chủ tịch HĐQT Sacombank, nhưng anh lại là người giữ lửa trong nhà. Trưa nào anh cũng về trước rồi điện thoại nhắc tôi và các con ngưng công việc về nhà ăn cơm.
Nguyên tắc của anh là làm gì cũng phải duy trì bữa cơm gia đình, nhất là buổi trưa, vợ chồng con cái phải tụ họp ăn cùng nhau. Vào ngày cuối tuần, tôi trổ tài nấu bếp và cả ông bà, con cháu cùng sum họp.
* Vậy chắc hẳn bà phải có bí quyết gì để vợ chồng tuy đã sống với nhau hàng chục năm, nhưng vẫn giữ được tình cảm như buổi ban đầu?
- Tôi quan niệm, dù thành đạt đến đâu, ở vị trí nào trong xã hội, nhưng trong gia đình người vợ vẫn phải “thấp” hơn chồng một bậc. Vì vậy, ngoài sự hiểu biết để ứng xử, người phụ nữ luôn phải giữ sự dịu dàng, nhân hậu. Đó là nguyên tắc thành công trong cuộc sống và công việc.
Tuy nhiên, cũng có lúc công việc căng thẳng, mình không kiểm soát được cảm xúc và dễ nổi nóng, nhưng sau đó phải biết nhìn lại vấn đề, đặt mình vào người khác để cảm thông, chia sẻ.
Nhiều người còn hỏi tôi, khi hai vợ chồng cùng làm công việc kinh doanh, chắc rất ít thời gian dành cho nhau và cũng có nhiều quan điểm, cách nghĩ trái ngược nhau.
Đối với chúng tôi thì không phải vậy, anh Thành luôn tư vấn và hỗ trợ tôi trong mọi việc, kể cả chăm sóc tôi khi tôi ham làm việc đến quên cả ăn uống, nghỉ ngơi. Chúng tôi quan niệm, thương trường nhiều sóng gió nên mái ấm bình yên là nơi giúp giảm căng thẳng và cân bằng cuộc sống.
* Khi được xếp vào danh sách những phụ nữ giàu có trên sàn chứng khoán, cảm giác của bà ra sao? Bà có thấy mình phải giữ gìn hơn và đôi lúc không được sống thoải mái như chính mình?
- Tôi vui vì đó chính là công sức mình bỏ ra và thu được kết quả, nhưng không tỏ ra xa cách, khác người. Theo tôi, không phải khi có nhiều tiền là mình được quyền sống xa hoa, mà trái lại vẫn phải tiết kiệm. Tôi đang làm ra tiền, đang kinh doanh, nhưng đích cuối cùng là để san sẻ cho mọi người, cho xã hội.
Khi thành đạt cũng có nhiều áp lực vì phải giữ gìn, nhưng kể ra cũng có lợi vì nhờ vậy mình sẽ cố gắng hoàn thiện hơn trong cách ứng xử, ăn nói, đi đứng và giao tiếp.
* Xin cảm ơn bà về buổi trò chuyện cởi mở. Chúc mái ấm bình yên của bà luôn đầy ắp tiếng cười để mọi người trong gia đình có điểm tựa tinh thần cho công việc kinh doanh của mình.
Theo 
Doanh nhân Sài Gòn

Giai thoại về tỷ phú xà bông "Cô Ba" Trương Văn Bền

Có một thời, xà bông “Cô Ba” là món mỹ phẩm không thể thiếu của các bà, các cô từ miền Đông Nam bộ đến miền Tây Nam bộ.

Tỷ phú Trương Văn Bền
Có một thời, xà bông “Cô Ba” đánh bật những thương hiệu xà bông nổi tiếng nước ngoài nhập khẩu vào thị trường Việt Nam, trở thành một “thương hiệu Việt” có tiếng nhất thời bấy giờ.

Lớp thanh niên bây giờ không biết, nhưng những người lớn tuổi ở miền Nam nói tới xà bông “Cô Ba” với hình ảnh người phụ nữ Việt có gương mặt phúc hậu in trên bao bì chắc chắn đều nhớ.
Ngày nay, trong các hệ thống siêu thị Coo-p Mart vẫn thấy xuất hiện loại xà bông này. Người mua nó là những người già, vẫn hoài cổ, thương nhớ một thương hiệu Việt từng một thời lừng lẫy.

Tỷ phú người Việt gốc Hoa Trương Văn Bền – chỉ huy trưởng kỹ nghệ đầu tiên của Việt Nam

Người Anh, Mỹ thường gọi những người đầu đàn trong kỹ nghệ là “captains of industry” (dịch nghĩa là “chỉ huy trưởng kỹ nghệ”) thể hiện ý tưởng coi những người khai phá, lãnh đạo các công ty, tập đoàn lớn có sức mạnh trong công nghiệp, kinh tế, tài chính, như những chỉ huy trưởng các đơn vị chủ lực trên mặt trận phát triển kinh tế xã hội.

Vì thế, nếu xem xét lại toàn bộ những gì mà tỷ phú Trương Văn Bền đã từng làm cho nền kỹ nghệ Việt Nam thời trước 1975, thì có thể gọi ông Trương Văn Bền là người “chỉ huy trưởng kỹ nghệ” đầu tiên của Việt Nam ở đầu thế kỷ 20 thiết nghĩ cũng không có gì quá quắt.

Trương Văn Bền chính là ông chủ đã khai sinh ra thương hiệu xà bông “Cô Ba” – là thương hiệu đầu tiên của người Việt cạnh tranh được với các thương hiệu nước ngoài nổi tiếng. Câu chuyện về cách làm giàu và cách làm thương hiệu của Trương Văn Bền thực khiến cho đời sau phải suy ngẫm.

Những năm cuối đời, tỷ phú Sài Gòn Trương Văn Bền sống ở Pháp. Ông đã viết một cuốn hồi ký kể về con đường xây dựng thương hiệu “Cô Ba” của mình – một thương hiệu khiến cho nhiều người Âu đến Việt Nam phải nể phục.

Cuốn hồi ký đấy được hậu duệ của tỷ phú Trương Văn Bền – hiện giờ đang sinh sống ở Pháp lưu giữ. Ai có cơ hội đọc hồi ký của tỷ phú TRương Văn Bền sẽ thấy tầm trí tuệ của một người có năng khiếu thương trường thiên bẩm.

Thế nên gọi Trương Văn Bền là “chỉ huy trưởng kỹ nghệ” đầu tiên của Việt Nam đầu thế kỷ 20, chắc chắn không phải là nói quá.

Theo các tác giả, có thể bắt đầu từ Vương Hồng Sển hay Hứa Hoành, thì Trương Văn Bền là người Minh Hương gốc Triều Châu, nhưng thật ra không đúng vậy. Theo người cháu nội của ông, anh Phillipe Trương hiện nay sống ở Pháp thì gốc ông ở Phước Châu, Phúc Kiến, ngay tại Ngũ Hổ Sơn.

Tổ tiên của Trương Văn Bền là Trương Thuận Tri, một sĩ quan tùy tùng của tướng nhà Minh Dương Ngạn Địch. Dương Ngạn Địch và người tướng khác nhà Minh là Trần Thượng Xuyên dẫn đoàn quân gồm binh sĩ cùng gia đình của họ từ Quảng Đông lánh nạn nhà Thanh đi trên đoàn tàu đến Việt Nam vào thế kỷ 17.

Được phép của chúa Nguyễn, Nguyễn Phúc Tân, Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Dịch xuông vùng đất mới Gia Định tìm chổ trú ẩn và lập nghiệp. Trần Thượng Xuyên đến Cù lao Phố (Biên Hòa) định cư trong khi Dương Ngạn Địch đến vùng nay gọi là Mỹ Tho.

Trương Thuận Chi ở Mỹ Tho một thời gian sau đó đến vùng Chợ Lớn ngày nay. Một người cháu của Trương Thuận Chi là Trương Quốc Thái (sinh vào khoảng đầu thập niên 1800) được nhà Nguyễn bổ chức Huyện Thừa ở Rạch Giá.

Sau ngày Pháp chiếm sáu tỉnh miền Nam, Trương Quốc Thái dời vào Huế và được vua Tự Đức phong làm chức Phủ doãn ở tỉnh Bình Thuận. Sau khi Trương Quốc Thái mất, người con của ông là Trương Quang Thanh trở về miền Nam ở tại Chợ Lớn.

Ông từ chối phục vụ trong chính quyền Pháp và trở thành một người buôn bán bình thường. Trương Quang Thanh cũng là một thi sĩ và họa sĩ. Ông mất vào năm 1905. Anh Philippe Trương hiện nay vẫn còn giữ hai bức tranh do ông vẽ và nhiều bài thơ.

Trương Quang Thanh có 8 người con trai và một gái. Người con gái là bà Trương Thị Cưởng, sau này thành hôn với ký giả Nguyễn Văn Sâm. Trương Văn Bền là một trong 8 người con trai. Ông Trương Văn Bền sanh ngày 10 tháng 10 năm Giáp thân thời vua Hàm Nghi, (tháng 12  - 1884).

Thưở thiếu thời, như nhiều gia đình khá giả và học thức, lúc đầu Trương Văn Bền học chữ Hán. Sau đó năm 1896, ông bắt đầu giáo dục Pháp, học ở các trường Ecole Municipale de Cholon, Collège de My Tho, Lycée Chasseloup-Laubat (Saigon).

Năm 1889, chính quyền thuộc địa Pháp tổ chức lần đầu tiên kỳ thi Brevet élémentaire (cao đẳng tiểu học). Thường xuyên được sang Pháp, lại được theo học ở những ngôi trường Pháp danh tiếng, nhưng Trương Văn Bền chưa từng có bất cứ bằng cấp nào.

Dù vậy ông vẫn được bổ nhiệm chức vụ Ký lục thượng thư. Năm 1901, ông rời bỏ không làm cho chính quyền Pháp nữa và trở lại nghề buôn bán của cha ông.

Gia đình Trương Văn Bền
Gia đình Trương Văn Bền

Từ bé, Trương Văn Bền đã quen với khung cảnh giao thương mua bán tấp nập, và máu kinh doanh cũng thấm vào người ông như lẽ tự nhiên. Năm 31 tuổi, ông lập một đồn điền cao su cỡ nhỏ ở Thủ Đức, sau đó mấy năm, ông mở rộng kinh doanh bằng cách lập công ty khai khẩn ruộng ở Đồng Tháp Mười.

Ông cũng hợp tác với Viện nghiên cứu Nông nghiệp Đông Dương trong việc chích nhựa thông và phục hồi các khu rừng quanh Đà Lạt, sản xuất mỗi năm khoảng 30 tấn dầu thông và hàng trăm tấn tùng hương.

Dù rất thành công với những lĩnh vực trên, nhưng khi nhắc đến Trương Văn Bền, người ta lại thường nhắc đến một lĩnh vực khác: kinh doanh xà bông.

Khi mới bỏ nghiệp công chức ra làm kinh doanh, lúc đầu Trương Văn Bền bán đậu phọng, đậu xanh, đường, trong một cửa tiệm nhỏ tọa lạc ở số 40 rue du Cambodge (Chợ Lớn). Sau đó ông khuếch trương mua các loại hàng sỉ từ các thương gia người Hoa rồi bán lại cho các tiệm bán lẻ ở Chợ Lớn.

Năm 1905, ông mở một xưởng sản xuất và tinh luyện dầu ở Thủ Đức. Ông dùng máy ép bằng hơi làm ở Mỹ, mua từ Pháp. Một năm sau, ông mở một nhà máy xay gạo ở Chợ Lớn và một ở Rạch Các. Ông cũng có một khách sạn và một tiệm mỹ phẩm ở Chợ Lớn.

Tuy vậy các cơ sở này không thành công bằng cơ sở sản xuất dầu của ông ở Thủ Đức. Từng được xang Pháp nhiều lần, Trương Văn Bền có cơ hội tiếp xúc với kỹ nghệ sản xuất xà bông của người Pháp. Khi về Việt Nam, ông thấy xà bông Việt Nam thua xa xà bông Pháp.

Thuở đó, chỉ có các lò nấu nhỏ ở Chợ Lớn sản xuất xà phòng, giá không đắt nhưng chất lượng kém. Người Sài Gòn ưa chuộng các sản phẩm nhập khẩu từ Pháp - loại sản phẩm mà họ vẫn thường gọi là xà bông Marseille.

Ở Việt Nam cũng có hai nhà máy làm xà bông của Pháp do ông Mazet và ông Boris làm chủ cũng được ưa chuộng. Tuy nhiên những hãng xà bông này giá rất mắc, chỉ giới thượng lưu mới dám dùng. Người bình dân chỉ biết đứng từ xa khao khát.

Không chạnh lòng buồn như nhiều người khi thấy dân chúng chỉ sính dùng hàng ngoại, ông Trương Văn Bền, với sự nhạy bén sẵn có của một doanh nhân, đã ngay lập tức nhận ra một cơ hội ngàn vàng. Một mặt, Trương Văn Bền lân la đến hai nhà máy này, tìm cách học bí quyết sản xuất xà bông.

Mặt khác, ông gởi một kỹ sư giỏi qua Paris để tìm hiểu kỹ thuật làm xà bông với một kỹ sư người Pháp ở nhà máy làm xà bông Mazet. Khi kỹ sư về Việt Nam, ông bắt tay vào sản xuất mặt hàng xà bông của riêng mình, với mục tiêu hướng tới người bình dân trước tiên và sau đó là cả tầng lớp thượng lưu.

Là người nhạy cảm trong việc thương mại, nhìn xa thấy rộng, ông Bền biết rõ một tiềm năng kinh tế Việt Nam còn bị lãng quên: cây dừa. Từ năm 1918, ông đã lập xưởng ép dầu dừa. Xưởng này sản xuất đủ loại dầu từ dấu nấu ăn, dầu salat (salad oil) đến dầu dừa, dầu castor, dầu cao su và các loại dầu dùng trong kỹ nghệ.

Mỗi tháng sản xuất 1.500 tấn. Năm 1932, hãng xà bông Trương Văn Bền được thành lập tại đường Quai de Cambodge (trước chợ Kim Biên bây giờ), ban đầu sản xuất 600 tấn xà bông giặt mỗi tháng.

Từ khi Xà bông Cô Ba tức xà bông thơm đầu tiên của Việt Nam ra đời, Cô Ba đã đánh bạt xà bông thơm của Pháp, nhập cảng từ Marseille, nhờ phẩm chất tốt, giá thành thấp.

Ông Trương Văn Bền sản xuất xà bông “Cô Ba” từ cây dừa Bến Tre. Theo ông Hồ Vĩnh Sang – Chủ tịch Hiệp hội Dừa Bến Tre thì dân Bến Tre đã làm dầu dừa bán cho Hoa kiều từ những năm đầu thế kỷ 20, bán cả cho ông Trương Văn Bền theo hai dạng: cơm dừa và dầu dừa thô.

Rồi chủ hãng mới chế thành dầu ăn, xà bông… Lúc đầu có xà bông đá giặt còn nghe mùi dầu dừa. Sau ra loại xà bông thơm Cô Ba thì ai cũng chịu bởi nó thơm lâu. Dân miền Nam hồi đó toàn xài xà bông Cô Ba chớ đâu có hàng ngoại nhập gì vô được.

Công thức sản xuất xà bông của ông Bền khi đó chỉ là “dầu dừa, xút kết hợp vài phụ gia khác ” với 72% dầu dừa. Tới giờ, vẫn chưa ai biết ông Bền có bí quyết nào chế ra được loại xà bông có mùi thơm vừa chân chất, gần gũi lại vừa kiêu sa, đài các mang tên “Cô Ba” ấy.

Bánh xà bông nhỏ mịn màng ấy chẳng những đánh bật được những loại xà bông ngoại lúc bấy giờ mà còn được xuất ra nước ngoài rất nhiều.

Cách làm thương hiệu “không tiền khoáng hậu” của tỷ phú Trương Văn Bền đầu thế kỷ 20

Trong ký sự “Một tháng ở Nam Kỳ” (1918), ông Phạm Quỳnh có nhắc đến ông Trương Văn Bền như sau: “Ông Trương Văn Bền là một nhà công nghiệp to ở Chợ Lớn, năm trước cũng có ra xem hội chợ ở Hà Nội, đem xe hơi ra đón các phái viên Bắc Kỳ về xem nhà máy dầu và nhà máy gạo của ông ở Chợ Lớn.

Xem qua cái công cuộc ông gây dựng lên, đã to tát như thế mà chúng tôi thấy hứng khởi trong lòng, mong mỏi cho đồng bào ta ngày một nhiều người như ông, ngõ hầu chiếm được phần to trong trường kinh tế nước nhà và thoát ly được cái ách người Tàu về đường công nghệ thương nghiệp….”.

Những việc Trương Văn Bền làm được, là những việc nằm ngoài sức tưởng tượng của nhiều nhà tư sản Việt và cả những người Pháp ở Đông Dương. Công ty Trương Văn Bền và các con ra đời với mục tiêu chính là trở thành nhà máy nấu xà phòng lớn nhất Đông Dương.

Tận dụng nguyên liệu có sẵn, ứng dụng kỹ thuật mới, Công ty Trương Văn Bền và các con đã đưa ra những sản phẩm chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế, giá cả phải chăng. Thêm vào đó, ông lại rất chú trọng đến việc quảng cáo và khuếch trương thương hiệu.

Trên hộp xà bông của hãng là hình một trong những mỹ nhân nức tiếng Sài Gòn lúc bấy giờ - cô Ba. Xà bông cô Ba xuất hiện trên khắp các báo chí với lời kêu gọi: “Dùng xà bông xấu, mục quần áo” và “Người Việt Nam nên xài xà bông của Việt Nam”.

Đặc biệt trong các cuộc triển lãm, gian hàng của công ty luôn tạo ấn tượng cho khách bởi mô hình cục xà bông khổng lồ và giá cả sản phẩm rẻ hơn bình thường đến 25%.

Hơn thế, ông Bền còn tìm cách đưa hình ảnh sản phẩm vào khắp các loại hình nghệ thuật được người Việt ưa thích lúc bấy giờ như ca vọng cổ, thơ lục bát…Thành công đến không ngoài dự tính.

Xà bông cô Ba đánh bại xà bông Marseille, nhanh chóng được biết tới trên toàn Đông Dương, thậm chí còn xuất sang Hương Cảng, qua châu Phi và Tân Đảo. Cái tên Xà bông cô Ba đã trở thành gắn bó với người Việt Nam vì chất lượng tốt và giá cả phải chăng.

Công ty của Trương Văn Bền và các con trở thành công ty sản xuất trong lĩnh vực dầu dừa không thể thay thể và quan trọng bậc nhất toàn cõi Đông Dương. Cho đến tận bây giờ, nhiều người Sài Gòn vẫn còn nhắc lại cái tên ấy với nỗi hoài niệm khôn nguôi về một Sài Gòn đầu thế kỷ.

Ngày nay ở Sài Gòn vẫn còn hãng xà bông Trương Văn Bền, vẫn sản xuất thương hiệu xà bông Cô Ba, coi đây như một biểu tượng của một thương hiệu Việt.

Một trong những điều làm nên thành công của thương hiệu xà bông Cô Ba chính là cái tên rất Việt Nam mà tỷ phú Trương Văn Bền đã nghĩ ra cho sản phẩm của công ty mình, cũng như biểu tượng ngườ phụ nữ Nam bộ trên bao bì.

Trong hồi ký của ông, ông viết về sự chọn lựa tên sản phẩm xà bông của ông như sau: “Tôi đang tìm kiếm tên nào kêu, dễ gọi, dễ nhớ để đặt tên cho Xà-bông mà chưa kiếm ra.

Ngoài Bắc, phong trào cách mạng Việt Nam quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học cầm đầu nổi lên nhiều chỗ và đã bị thất bại đau đớn, đến lúc Tây xử tử họ ở Yên Bái thì mười người như một, trước khi đút đầu vô máy chém đều bình tĩnh hô to:

“Việt Nam vạn tuế” gây một luồng dư luận sôi nổi ở trong nước và thế giới.Tôi không bỏ lỡ vội chụp lấy vụ này, tôi muốn lấy tên Việt Nam đặt cho xà bông do người Việt Nam sản xuất để nêu lòng ái quốc đang bồng bột ở trong xứ, xà bông Việt Nam là của người Việt làm cho người Việt, người Việt yêu nước phải dùng đồ Việt Nam”.

Về sự chọn lựa biểu tượng của xà bông Việt Nam, ông đã dùng hình ảnh của một người con gái đẹp Việt nam rất đậm dân gian Nam bộ là “Cô Ba”. Không biết trong trường hợp nào ông đã dùng hình ảnh của một người phụ nữ “cô Ba” – người phụ nữ có gương mặt phúc hậu, thuần Việt, tóc búi với nét đẹp có duyên Nam bộ.

Biểu tượng này của vùng đất miền Nam đánh trúng tâm lý dễ dàng nhận diện vàquen thuộc của con người trong vùng đã là một yếu tố quan trọng để sản phẩm của ông được tiếp nhận rộng rãi.

Một trong những tin đồn huyền thoại dân gian kể lại thì “Cô Ba “chính là con gái Thầy Thông Chánh ở Trà Vinh, người đàn bà đẹp nhứt Nam Kỳ hồi đầu thế kỷ 20. Cô Ba có thể coi là người phụ nữ Việt đầu tiên là người mẫu cho một thương hiệu hàng hóa Việt Nam.

Có nhiều giai thoại về “Cô Ba”, nhưng các giai thoại và tin đồn về “Cô Ba” có nhiều tin không đúng. Thật ra người phụ nữ ấy chính là người vợ của ông Trương Văn Bền. Ta có thể thấy hình ảnh trên nhãn hiệu và ảnh của phu nhân ông Trương Văn Bền trong bức ảnh chụp chung cả gia đình là một.

Vả lại, trước kia trong phòng làm việc của ông tại công ty Xà Bông Việt Nam có tượng bằng đồng đen hình vợ ông mà ông dùng làm mẫu cho hình trên hộp xà bông. Rất yêu người vợ xinh đẹp này, ông Trương Văn Bền đã lấy chân dung vợ làm biểu tượng cho thương hiệu xà bông của mình, biến nó thành một thương hiệu sống cho đến tận giờ.

Thời bây giờ nhắc đến chuyện PR, làm thương hiệu, chẳng ai xa lạ. Nhưng từ thời xưa, Trương Văn Bền đã rất giỏi quảng bá thương hiệu của mình.

Trong sự tiếp thị sản phẩm trên thị trường cạnh tranh lúc đầu và sau này cho đến khi ông mất để khuếch trương thương hiệu, Trương Văn Bền đã khôn khéo sáng tạo không kém những doanh nhân nổi tiếng trên thế giới hiện nay.

Trên báo chí ở Việt Nam từ khi xà bông Việt nam được sản xuất vào năm 1932, trong mục quảng cáo thường đăng “Dùng xà bông xấu, mục quần áo” hoặc “Người Việt Nam nên xài xà bông Việt Nam” của Hãng Xà bông Trương Văn Bền, vừa quảng cáo, vừa “khích” người Việt nên dùng thương hiệu Việt, khích lệ  lòng tự hào Việt.

Trong hồi ký, ông Trương Văn Bền kể: “Tôi phải làm quảng cáo dữ lắm cho thương hiệu xà bông Cô Ba. Một mặt phải kiếm thế ép mấy hàng tạp hóa mua xà-bông Việt Nam về bán, vì tiệm tạp hóa hầu hết của khách trú, chúng xấu bụng không mấy khi chịu mua đồ của người Việt Nam chế tạo về bán, chỉ trừ khi nào món đồ ấy đã được thông dụng đem cho chúng một mối lợi hàng ngày thì chúng mới chịu mua.

Tôi bèn huy độngmột tốp người cứ lần lượt hàng ngày đi hết các tiệm tạp hóa hỏi có xà bông Cô Ba bán không ? Hễ có thì mua một, hai xu, bằng không thì đi chỗ khác, trước khi bước chân ra khỏi tiệm nói với lại một câu:

“Sao không buôn xà bông Việt Nam về bán ? Thứ đó tốt hơn xà bông khác nhiều”. Hết người này tới người khác rồi chủ tiệm cũng phải để ý lấy làm lạ, phải hỏi lại chỗ bán xà bông Việt Nam, cho người mua thử về bán.

Tôi còn tổ chức những tốp quảng bá thương hiệu. Tốp thì ôm đờn ca vọng cổ tán dương tính chất của xà bông của hãng mình, tốp thì đi đánh võ rao hàng, rồi đá banh tôi cũng cho mặc áo thêu thương hiệu xà bông của hãng. Nói tóm lại tôi không bỏ lỡ một dịp nào mà không làm quảng cáo, nên xà bông Việt Nam bán chạy lắm”.

Nhờ sức mạnh quảng cáo nên xà bông Cô Ba của Trương Văn Bền bán rất chạy, tiến phát rất mau, chỗ nào cũng buôn xà bông Cô Ba, ai nấy chỉ dùng xà bông Cô Ba thôi.

Thấy mối lợi như vậy nhiều người chóa mắt cũng làm xà bông để tranh dành, như Bà Đốc phủ Mầu ra xà bông “Con Cọp”, Balet ra xà bông “Nam-Kỳ” cũng có biểu tượng người đàn bà Việt Nam như xà bông Cô Ba, Nguyễn Phú Hữu ra xà-bông  “3 sao” ở Cần Thơ...

Nhưng tranh đua không lại với xà bông Cô Ba nên đều bị thất bại, bỏ cả.

Theo Thạch Vinh
Phụ nữ Today
Flag Counter