Thứ Hai, 11 tháng 6, 2012

Khởi sự doanh nghiệp xã hội ngay trong thời khủng hoảng


Khi nền kinh tế vẫn còn chật vật, thật khó để bắt đầu một dự án xã hội. Kinh doanh thu lợi nhuận còn khó, nữa là những công việc với mục tiêu cải thiện thế giới.
Nhưng có một số quan điểm rằng, thời điểm khó khăn có thể làm tăng mối quan tâm đến các dự án xã hội. Ông Wes Selke, nhà quản lý đầu tư của công ty vốn đầu tư mạo hiểm Good Capital tại San Francisco nói: “Tôi có cảm giác rằng suy thoái lại khiến ngày càng nhiều người muốn đầu tư vào các công ty làm đúng việc, đúng cách, ngay từ lúc bắt đầu.” Có ít nhất 3 quỹ đầu tư “kinh doanh mang tính xã hội” đã gây quỹ được hơn 100 triệu USD trong vòng hai năm trước: Quỹ Ignia, Leapfrog Investments và Micro Vest.
Theo ông Del Nelson, đối với một doanh nghiệp xã hội, người ta kì vọng sứ mệnh xã hội ít nhất cũng phải được coi trọng ngang với sứ mệnh thu lợi nhuận. Do đó, tập đoàn thuốc lá Philip Morris dù có quyên góp hào phóng đến thế nào cho các hoạt động nghệ thuật và xã hội, cũng không lọt được vào danh sách. Nhưng nếu doanh nghiệp coi một thách thức kinh tế xã hội hay bảo vệ môi trường như nỗi trăn trở của mình – ví dụ như bán đèn năng lượng mặt trời giá rẻ cho các thôn làng thiếu điện – thì doanh nghiệp đó sẽ được cân nhắc là doanh nghiệp xã hội. (Ông Del Nelson là giám đốc điều hành Mạng lưới Doanh nghiệp Xã hội, một tổ chức của khoảng 500 giám đốc điều hành, nhà sáng lập công ty, các lãnh đạo và nhà đầu tư phi lợi nhuận.)
Với những ai đang tìm cách bắt đầu những doanh nghiệp như vậy, các nhà khởi nghiệp và nhà đầu tư xã hội đưa ra một số lời khuyên như sau.
Kiếm tiền cũng tốt
Nếu bạn chọn mô hình vì lợi nhuận, hãy đi theo hướng đó mà không cần cảm thấy tội lỗi gì cả. Một vài năm trước, Assaf Shafran đã thành lập một công ty phi lợi nhuận tại Israel chuyên cung cấp hệ thống chuyên chở những người hồi đáp đầu tiên trong các tình huống khẩn cấp (như nhân viên cứu hỏa hay kỹ thuật viên y tế khẩn cấp) dựa trên điện thoại thông minh.
Nhưng doanh nghiệp xã hội của anh, với cái tên IsraelLife, có một khoảng thời gian không thể đưa hệ thống đến với các tổ chức tình nguyện, chủ yếu bởi vì các tổ chức này nghi ngờ chuyện cho không – họ nghi ngờ bên anh sẽ yêu cầu quyền lợi độc quyền hay giở thói quan liêu. Anh Shafran đã quyết định không làm việc tốt nữa, mà sẽ đem bán hệ thống. Năm 2008, anh cùng nhóm của mình thành lập công ty vì lợi nhuận, gọi tên là NowForce, hiện giờ đã mở rộng sang Mỹ. Doanh nghiệp đã gây được 2,5 triệu USD từ các nhà đầu tư cá nhân, và anh Shafran hi vọng doanh thu sẽ vượt mức 3 triệu USD trong năm nay.
Chọn đi theo mô hình vì lợi nhuận, có thể sẽ bắt bạn phải dán mắt vào bảng cân đối kế toán trước khi giải phóng được sứ mệnh xã hội của mình, mà theo như bà Lisa Lorimer, nguyên giám đốc điều hành của công ty Vermont Bread, công ty chuyên sản xuất bánh quy hữu cơ từ năm 1978, thì “Bạn không thể trả cho nhân viên của mình một mức lương đủ sống nếu bạn không có tiền trong ngân hàng”
Vốn đầu tư mạo hiểm không phải là lựa chọn duy nhất.
Huy động vốn cho doanh nghiệp xã hội có lẽ khó khăn hơn gây quỹ cho doanh nghiệp truyền thống. Một vài nhà khởi nghiệp thích tự gây vốn và vay ngân hàng. Một vài người khác theo đổi vốn đầu tư mạo hiểm, và họ chấp nhận điều không thể tránh khỏi - đánh mất quyền kiểm soát.
Vermont Bread bắt đầu công ty với một cam kết sẽ trả cho nhân viên “mức lương đủ sống” – tức là cao gấp 3-4 lần so với mức lương thấp nhất của hầu hết các đối thủ cạnh tranh. Công ty cũng cung cấp bảo hiểm sức khỏe cho nhân viên và mua nguyên liệu từ các nông trang bền vững ở địa phương, điều này lại càng góp phần vắt kiệt lợi nhuận.
Kêt quả là, công ty tăng trưởng rất chậm chạp. Tại thời điểm đó, nhiều doanh nghiệp làm bánh nói rằng Vermont Bread thiếu thực tế khi cố bán sản phẩm hữu cơ (với thời hạn sử dụng ngắn) và cố trả tiền bảo hiểm cho nhân viên. Tuy vậy, Vermont Bread lúc đó cũng đã tìm được một ngân hàng địa phương cung cấp các khoản vay nhỏ, nhờ đó doanh nghiệp non trẻ này có thể mua được thiết bị - một chiếc chảo rán, một chiếc xe tải, một lò nướng bánh pizza.
Hãy thận trọng với tăng trưởng. Năm 2005, James Gutierrez thành lập ngân hàng Progreso Financiero tại Mountain View, California. Ngân hàng này cung cấp các khoản vay nhỏ, trung bình khoảng 1.000 USD cho các cá nhân và doanh nghiệp nhỏ vốn không có hoặc có rất ít tiền lệ tín dụng, thông qua quầy hàng tại các cửa hàng tạp hóa và hiệu thuốc Tây Ban Nha ở California và Texas. Người đến vay thường sử dụng khoản vay để mua xe tải chở hàng hay các thiết bị khác.
Anh Gutierrez năm nay 33 tuổi, ông bà của anh là dân nhập cư từ Mexico đến Mỹ. Anh có ý tưởng hình thành Progreso Financiero như một dự án nghiên cứu “khởi nghiệp xã hội” khi anh còn đang học MBA tại Stanford. Anh muốn tìm hiểu xem liệu việc cho vay các khoản nhỏ có thể giúp được hàng triệu người nhập cư tại Mỹ hay không. Anh khởi đầu tại một siêu thị Mexico ở Đông Los Angeles.
Trước đây khá lâu, anh điều hành các quầy hàng tại 16 cửa hàng Sears and Kmart, mà anh từng nghĩ sẽ trở thành viên nam châm hút các gia đình nhập cư. “Chúng tôi đã nghĩ đây là một cơ hội lớn, một cách thức tuyệt vời để tăng trưởng nhanh chóng”, anh nói. Nhưng mọi việc lại không diễn ra như vậy.
Sears and Kmart đã đóng cửa các quầy hàng của Progreso vì khối lượng cho vay của họ quá ít. Gutierrez nói về bài học đáng giá: “Chúng tôi phát hiện ra rằng siêu thị bình dân phải là nơi mà mọi người đến 3 lần 1 tuần, chứ không phải là chuỗi cửa hàng toàn quốc”.
Progreso thu lãi suất trung bình 36% trên các khoản vay, gần như gấp đôi lãi suất trên thẻ tín dụng của ngân hàng nhưng lại ít hơn nhiều so với lãi suất mà các hãng dịch vụ cho vay ngắn ngày vẫn thu. Nếu người vay trả nợ đúng hạn, Progreso sẽ cấp cho họ những điều khoản tốt hơn cho những khoản vay tiếp theo. Với 480 nhân viên, công ty thu được 75 triệu USD từ vốn đầu tư mạo hiểm và thêm 75 triệu USD nữa từ vay nợ, và cung cấp cho khách hàng hơn 160.000 khoản vay. Tỉ lệ lỗ của Progreso là từ 5 – 10%. Gutierrez nói anh kì vọng ngân hàng của mình sẽ bắt đầu có lợi nhuận từ năm sau.
Hub Ventures, Social Venture Network, Echoing Green, Invested Development và Unreasonable Institute, tất cả đều cung cấp dịch vụ cố vấn và cơ hội cho các nhà đầu tư.
Vẫn thuê được người tài
Mặc dù trả ít tiền hơn so với các công ty cùng ngành, doanh nghiệp xã hội vẫn có khả năng thuê được người tài.
Mathieu Senard là giám đốc điều hành của Alter Eco Americas, một công ty tại San Francisco chuyên bán các sản phẩm hữu cơ của Fair Trade, bao gồm sôcôla đen, diêm mạch, gạo và đường cho các hãng bán lẻ. (người mua của Fair Trade đưa ra mức giá cao hơn giá thị trường nhằm thúc đẩy sự bền vững tại các nước đang phát triển.)
Ông Senard và Edouard Rollet đã thành lập Alter Eco tại Mỹ năm 2005, với hi vọng đẩy lùi được nghèo đói nhờ kinh doanh. Họ mua sản phẩm giá cao tại các nông trang tập thể nhỏ ở các nước phát triển. Ông Senard kì vọng doanh thu sẽ tăng lên 5 triệu USD trong năm nay, so với 3 triệu USD năm ngoái.
Senard lo rằng mình không thể thu hút được người tài trong ngành. Và một bất ngờ lớn đã xảy ra, khoảng 4 năm rưỡi trước, khi Kate Tierney, phó chủ tịch bán hàng tại một nhà phân phối thực phẩm thiên nhiên lớn, đã đồng ý tham gia ban quản trị Alter Eco.
Bà Tierney đã giới thiệu Alter Eco tới các đại lý và các hãng bán lẻ có tầm ảnh hưởng. Bà gia nhập đội ngũ điều hành Alter Eco trong một chuyến tới thăm khu nông trang tập thể tại Thái Lan. Sau khoảng 3 ngày ở ngôi làng nhỏ, bà Tierney đã nói với ông Senard rằng bà dự định từ bỏ công việc hiện tại để đến làm việc cho ông. Ông Senard kể lại: “Tôi lúc đó giống như một con nai ngơ ngác trước ánh đèn pha vậy. Tôi nói: Chúng tôi không đủ tiền để trả lương cao cho bà. Chúng tôi chỉ có thể trả được 1 nửa so với mức lương hiện tại của bà thôi.” Không nhụt chí vì điều đó, bà Tierney vẫn gia nhập Alter Eco và bà đã giúp công ty tăng gấp đôi doanh số.

Theo NyTimes

Người đứng đầu “đế chế” bán lẻ lớn nhất thế giới đã khởi nghiệp như thế nào?


Ông chủ tập đoàn bán lẻ Wal-Mart, Sam Walton, đã từng khởi nghiệp chỉ với vài đồng xu trong túi.
Năm 2001, Kmart với hệ thống hàng chục nghìn cửa hàng bán lẻ đã tuyên bố phá sản, chỉ còn lại một mình "người khổng lồ" Wal-Mart trụ lại. Ông chủ tập đoàn bán lẻ Wal-Mart ,Sam Walton, đã từng khởi nghiệp chỉ với vài đồng xu trong túi.
"Tôi không biết điều gì khiến người ta có tham vọng, nhưng thực tế là tôi đã được trời phú cho động cơ và tham vọng bẩm sinh", Sam Walton nói về mình như vậy. Sam Walton tốt nghiệp Trường Đại học Missouri vào tháng 6/1940 với bằng kinh doanh, và ông đã làm việc cật lực như đã làm trong suốt cuộc đời.
"Tôi luôn tràn đầy năng lượng, nhưng tôi cũng thấy mệt. Từ khi vào trung học, tôi đã tự làm ra tiền và tự mua quần áo cho mình. Tại trường đại học, tôi chi thêm tiền học, tiền ăn, các khoản hội phí và tiền chi cho các cuộc hẹn hò. Bố mẹ tôi sẽ rất vui lòng giúp đỡ tôi nếu có thể, nhưng đó là thời kỳ đại khủng hoảng và họ không có thêm một khoản tiền nào.
Tôi phải tiếp tục công việc đưa báo trong thời học trung học, và vào đại học tôi phải đi đưa thêm một số tuyến đường mới, thuê một vài người giúp đỡ, và biến nó thành một việc kinh doanh tương đối tốt. Tôi kiếm được khoảng 4.000 đến 5.000 đôla mỗi năm, khoản tiền mà vào cuối thời kỳ đại khủng hoảng là tương đối lớn.
Ngoài việc đưa báo, tôi còn làm phục vụ bàn để đổi lấy đồ ăn, và tôi cũng đứng đầu đội cứu hộ bể bơi. Bạn có thể thấy tôi là người khá bận rộn, và bạn có thể hiểu được tại sao tôi ngày càng tôn trọng giá trị đồng đô la. Nhưng giờ đã đến lúc tốt nghiệp đại học, và tôi đã sẵn sàng từ bỏ những công việc này, để thực sự háo hức bước ra ngoài thế giới và tự tạo ra một giá trị nào đó cho bản thân mình bằng một công việc thực sự.
Lần đầu tiên cơ hội bán lẻ đến với tôi vào năm 1939, khi gia đình tôi chuyển đến ở cạnh nhà một người đàn ông tên là Hugh Mattingly. Ông từng là thợ cắt tóc ở Odessa, Missouri trước khi cùng với những anh em của mình bắt đầu phát triển một hệ thống có tới 60 cửa hàng vào thời điểm đó. Tôi có thể nói chuyện với ông về việc buôn bán, về cách thức tiến hành, và kết quả kinh doanh. Ông rất quan tâm đến tôi và sau đó thậm chí còn đề nghị tôi làm việc cho ông ta.
Nhưng vào lúc đó, tôi không quan tâm một cách nghiêm túc tới công việc bán lẻ. Thực ra, tôi đã tin chắc là mình sẽ trở thành một người bán bảo hiểm. Cha người bạn gái của tôi tại trường trung học là một nhân viên bán bảo hiểm rất thành công của Công ty Bảo hiểm Nhân thọ Mỹ, và tôi đã nói chuyện với ông về công việc kinh doanh đó. Đối với tôi dường như ông đã làm ra tất cả tiền trên thế giới, bảo hiểm dường như là một thứ thích hợp hiển nhiên đối với tôi vì tôi nghĩ rằng tôi có thể bán nó.
Tôi buôn bán mọi thứ. Khi còn là một đứa trẻ, tôi bán tạp chí Liberty (Tự Do) giá một đồng 5 xu, và sau đó chuyển sang tờ Woman’s Home Companion (Cẩm nang gia đình của phụ nữ) khi tờ đó bán chạy hơn để lấy một hào, và nhận ra rằng tôi có thể kiếm được gấp đôi. Mặc dù tôi và bạn gái chia tay, nhưng tôi vẫn có nhiều kế hoạch lớn.
Tôi dự định rằng mình sẽ lấy bằng và theo học tại Đại học Tài chính Wharton ở Pennsylvania. Nhưng khi nhắc đến đại học, tôi nhận ra rằng cho dù vẫn duy trì việc bán báo để cho việc học thì tôi cũng không đủ tiền để học tại Wharton.
Vì vậy, tôi quyết định đầu tư vào những gì mình đã có và đi theo hai nhà tuyển mộ, những người đã đến các trường học ở Missouri. Cả hai người đều mời tôi làm việc cho công ty của họ. Tôi chấp nhận lời đề nghị của công ty JC Penney và bỏ qua lời đề nghị từ công ty Sears Roebuck. Giờ đây, tôi nhận ra một sự thật đơn giản:\ tôi đã trở thành người bán lẻ vì quá mệt mỏi và muốn có một việc làm.
Công việc diễn ra khá thuận lợi - ba ngày sau khi tốt nghiệp (ngày 3/6/1940) tôi đến nhận công việc tại cửa hàng JC Penney tại Des Moines, Iowa, và bắt đầu làm nhân viên quản lý tập sự với mức lương 75 đôla một tháng. Đó là ngày tôi gia nhập nghề bán lẻ, và ngoại trừ thời gian phục vụ trong quân đội thì tôi đã ở trong nghề này suốt 52 năm.
Có thể tôi được sinh ra để trở thành một thương gia, có thể đó là số phận. Tôi không biết nhiều về những điều đó, nhưng tôi chắc chắn về điều này. Tôi yêu thích nghề bán lẻ ngay từ đầu và đến tận bây giờ tôi vẫn yêu thích nó. Tuy nhiên, không phải ngay lập tức mọi việc đã diễn ra suôn sẻ như vậy.
Như đã nói, tôi có thể bán hàng, và tôi yêu thích công việc bán hàng. Không may là tôi đã không bao giờ tập viết cẩn thận. Helen nói rằng chỉ có khoảng năm người trên thế giới có thể đọc được chữ viết như gà bới của tôi và bà ấy không thuộc số đó. Điều này bắt đầu gây khó khăn cho tôi trong công việc mới.
Ở Penney có một nhân viên đến từ New York tên là Blake chuyên đi khắp đất nước để kiểm toán các cửa hàng, đánh giá nhân sự và những việc linh tinh khác, và ông ta gặp chúng tôi khá thường xuyên. Ông ta rất khó chịu vì tôi đã làm rối tung các hóa đơn bán hàng và thường nhầm lẫn số đăng ký hàng hóa. Tôi không thể để một khách hàng mới phải đợi trong khi lãng phí thời gian với đống giấy tờ về số hàng mà tôi đã bán và phải thừa nhận là nó đã gây ra nhiều rắc rối.
Ông Blake sẽ nói khi đến Des Moines sẽ gặp tôi: “Walton, nếu cậu không phải là một nhân viên bán hàng giỏi như vậy, có lẽ tôi đã sa thải cậu. Có thể cậu chỉ đơn giản là không được sinh ra để bán lẻ mà thôi”.
May mắn thay, tôi đã tìm được một nhà vô địch trong cửa hàng nơi tôi làm. Đó là nhà quản lý Duncan Majors, một người có khả năng tạo động lực tuyệt vời và có niềm tự hào là đã đào tạo nhiều quản lý viên của Penney hơn bất kỳ ai trên nước Mỹ. Ông có kỹ thuật riêng của mình và là một nhà quản lý rất thành công. Bí quyết của ông là có thể khiến chúng tôi làm việc từ 6h30 sáng đến 7h hoặc 8h tối. Tất cả chúng tôi đều muốn trở thành quản lý viên như ông.
Vào chủ nhật khi không phải làm việc thì chúng tôi, cả tám người đều là nam giới đến nhà ông. Tất nhiên chúng tôi sẽ nói chuyện về bán lẻ và chơi bóng bàn hoặc chơi bài. Đó là một công việc làm cả tuần. Tôi nhớ vào một ngày chủ nhật, Duncan Majors lĩnh séc thưởng hàng năm của Penney và khoe nó ở khắp mọi nơi. Khoản tiền thưởng khoảng 65.000 đôla đã gây ấn tượng mạnh tới chúng tôi. Việc được nhìn người đàn ông này làm việc làm tôi thấy phấn khích với công việc bán lẻ. Ông thực sự rất giỏi.
Hồi đó có một điều hay là ngài James Cash Penney thường đích mình đến thăm cửa hàng. Ông không qua lại các cửa hàng thường xuyên như tôi vẫn làm sau này, nhưng ông cũng có đi lại. Tôi vẫn nhớ ông đã chỉ cho tôi cách buộc và đóng gói hàng hóa, bọc hàng với những sợi dây và những tờ giấy tuy nhỏ nhưng nhìn vẫn đẹp.
Tôi làm việc cho Penney khoảng 18 tháng, và theo những gì tôi biết, họ đã thực sự là đầu tàu của ngành này. Nhưng hồi đó tôi đang trong quá trình tìm kiếm sự cạnh tranh. Bộ phận tôi làm việc tại Des Moines có 3 cửa hàng, do đó vào giờ ăn trưa tôi đi lang thang tới các cửa hàng của Sears và Yonkers để xem họ làm gì.
Đến đầu năm 1942, khi chiến tranh vẫn đang diễn ra, là một người đã tốt nghiệp ROTC, tôi hăng hái tình nguyện, sẵn sàng vượt biển và thực hiện nghĩa vụ người lính của mình. Nhưng quân đội là một điều ngạc nhiên lớn đối với tôi. Do có khuyết tật nhỏ về tim, tôi không đủ tiêu chuẩn về thể lực để tham gia chiến đấu mà chỉ được giao những nhiệm vụ hạn chế.
Loại công việc này làm tôi chán nản và do chỉ muốn được gọi đi chiến đấu nên tôi đã bỏ việc tại Penney và chuyển xuống phía nam, về hướng Tulsa với ý niệm mơ hồ là muốn xem công việc kinh doanh dầu lửa ở đây như thế nào. Nhưng tôi lại nhận được việc làm tại nhà máy thuốc súng khổng lồ Du Pont tại thị trấn Pryor, bên ngoài Tulsa. Căn phòng duy nhất tôi có thể tìm được nằm ở phía trên Claremore. Đó là nơi tôi gặp Helen Robson vào một đêm tháng Tư tại một sân chơi bowling rồi chúng tôi yêu nhau.
Cha của Helen là một luật sư, một chủ nhà băng, một chủ trang trại nổi tiếng, và Helen thấy chúng tôi cần phải sống độc lập. Tôi đồng ý với Helen, và tôi nghĩ cơ hội tốt nhất của chúng tôi là ở St.Louis. Khi chúng tôi tới St.Louis, một người bạn cũ của tôi, Tom Bates cũng muốn gia nhập vào ngành kinh doanh cửa hàng bách hóa.
Tôi biết Tom, khi chúng tôi còn là những đứa trẻ tại Shelbina - cha của cậu ấy sở hữu cửa hàng bách hóa tổng hợp lớn nhất thị trấn còn Tom và tôi là bạn cùng phòng ở Beta Theta Pi tại Missouri.
Sau khi giải ngũ, tôi tìm gặp Tom ở St. Louis. Cậu ta đang làm việc tại cửa hàng giày của nhà Butler Brothers. Butler Brothers là hãng bán lẻ tầm cỡ khu vực với hai hệ thống: Federated Stores, một hệ thống các cửa hàng bách hóa nhỏ, và Ben Franklin, một hệ thống các cửa hàng tạp hóa mà trước đây chúng ta thường gọi “Năm xu và Một hào” (những cửa hàng bán quần áo và đồ gia dụng nhỏ với giá 5 và 10 xu) hoặc các “cửa hàng 10 xu”.
Tôi nghĩ Tom đã có một ý tưởng tuyệt vời. Cậu ta và tôi sẽ trở thành đối tác, mỗi người góp 20.000 đôla, và mua một cửa hàng bách hóa Federated tại đại lộ Del Mar ở St.Louis. Helen và tôi có khoảng 5.000 đôla, và tôi biết rằng chúng tôi có thể vay số còn lại từ cha của Helen, người luôn tin tưởng và ủng hộ tôi. Tôi đã chuẩn bị tất cả để trở thành một chủ sở hữu cửa hàng bách hóa tại một thành phố lớn thì Helen nói ra suy nghĩ và đặt ra quy tắc của mình.
Vì vậy, các thành phố với dân số trên 10.000 người là ngoài phạm vi của nhà Walton. Nếu bạn biết một chút về chiến lược thành phố nhỏ ban đầu đã đưa Wal-Mart phát triển suốt hai thập kỷ sau đó, thì bạn có thể thấy rằng đây là sự sắp đặt sẵn cho những gì phải đến. Helen thậm chí còn nói rằng không cần đối tác vì như vậy quá rủi ro.
Gia đình cô cũng đã phải đối mặt với một số quan hệ đối tác xấu đi, và cô kiên quyết cho rằng con đường duy nhất là tự kinh doanh một mình. Do vậy, tôi trở lại với Buler Brothers để xem họ còn gì khác cho tôi không.
Cái họ có là cửa hàng tạp hóa Ben Franklin tại Newport, Arkansas - một thị trấn chỉ có bông và đường sắt với khoảng 7.000 dân, tại đồng bằng sông Mississippi, phía Đông Arkansas. Tôi nhớ là mình đã đi đến đó bằng tàu hỏa từ St. Louis mà vẫn mặc quân phục với thắt lưng Sam Browne và đi tới phố Front để xem qua cửa hàng mơ ước này.
Một người đến từ St. Louis đã sở hữu nó nhưng công việc kinh doanh của ông ta đã không đi tới đâu. Ông ta thua lỗ và muốn bán mọi thứ đi càng nhanh càng tốt. Tôi nhận ra rằng tôi là gã khờ mà Butler Brothers gửi đến để cứu ông ta.
Tôi mới chỉ hai mươi bảy tuổi và đầy tự tin, nhưng tôi không biết điều đầu tiên cần làm là định giá những đề xuất kiểu này nên đã nhảy vào vụ mua bán ngay lập tức. Tôi mua cửa hàng với giá 25.000 đôla, trong đó có 5.000 là của tôi, còn 20.000 thì vay từ cha của Helen. Sự ngây thơ của tôi về hợp đồng và những thứ tương tự lúc đó đã gây nhiều rắc rối cho tôi sau này.
Tất nhiên chỉ sau khi hoàn tất vụ mua bán tôi mới thấy rằng cửa hàng đó thực sự vô dụng. Nó có doanh thu khoảng 72.000 đôla một năm, nhưng tiền thuê chiếm 5% doanh thu - điều tôi nghĩ là có vẻ tốt - nhưng hóa ra lại là mức thuê cao nhất trong ngành kinh doanh tạp hóa. Không ai trả 5% doanh thu để thuê cửa hàng. Và nó còn có một đối thủ cạnh tranh lớn - cửa hàng Sterling bên kia đường với một nhà quản lý tuyệt vời, John Dunham, với doanh số 150.000 đôla một năm, gấp đôi cửa hàng của tôi.
Mặc dù rất tự tin song tôi chưa từng có một ngày kinh nghiệm trong việc quản lý một cửa hàng tạp hóa. Do vậy, Butler Brothers gửi tôi đến cửa hàng Ben Franklin tại Arkadelphia, Arkansas để đào tạo trong hai tuần. Sau đó, tôi tự mình đứng trên đôi chân của mình và chúng tôi mở cửa hàng vào ngày 01/09/1945.
Tôi sẽ không bao giờ quên một vụ làm ăn với Harry, một trong những vụ làm ăn tốt nhất tôi từng có và là một bài học đầu tiên về định giá. Đó là điều đã làm tôi lần đầu tiên nghĩ về phương hướng của thứ cuối cùng trở thành nền tảng triết lý kinh doanh của Wal-Mart. Nếu bạn quan tâm đến vấn đề “làm thế nào mà Wal-Mart đã làm được điều này” thì đây là một câu chuyện mà bạn phải ngồi thẳng lên và chú ý lắng nghe.
Harry bán quần lót phụ nữ - loại sợi đan, hai vạch có phần thắt eo bằng dây chun - với giá 2 đôla một tá. Tôi đã mua loại tương tự của Ben Franklin với giá 2,5 đôla một tá và bán chúng với giá 1 đôla ba chiếc. Còn với giá của Harry, chúng tôi có thể bán với giá 1 đôla bốn chiếc và tạo ra một đợt khuyến mãi lớn cho cửa hàng của chúng tôi.
Đây là bài học rất đơn giản mà chúng tôi đã học được - bài học mà những người khác cũng học được và cuối cùng đã làm thay đổi cách thức các nhà bán lẻ bán hàng và cách thức khách hàng mua hàng trên toàn nước Mỹ. Tôi thấy rằng bằng cách định giá 1 đôla, tôi có thể bán được nhiều gấp ba lần so với việc định giá 1,2 đôla. Tôi có thể chỉ còn được một nửa lợi nhuận từ một chiếc nhưng do tôi bán được nhiều gấp ba lần nên tổng lợi nhuận lớn hơn nhiều.
Mọi thứ bắt đầu tiến triển nhanh chóng theo chiều hướng khá tốt tại Newport trong một thời gian rất ngắn. Chỉ sau hai năm rưỡi, chúng tôi đã trả lại được 20.000 đôla vay của bố Helen và tôi cảm thấy rất hài lòng vì điều này. Thế nghĩa là công việc kinh doanh đã tự đứng vững và tôi hình dung được là chúng tôi đã thực sự đi trên con đường của mình.
Chúng tôi đã thử nhiều biện pháp khuyến mãi và chúng có tác dụng tốt. Trước tiên, chúng tôi đặt một chiếc máy rang ngô bên ngoài vỉa hè và bán rất chạy. Do đó, tôi đã suy nghĩ rất nhiều và cuối cùng quyết định rằng cần đặt ở đó một chiếc máy làm kem nữa. Tôi lên dây cót lòng can đảm của mình và đi tới nhà băng để vay một khoản tiền 1.800 đôla (vào thời điểm đó đây là một món tiền rất lớn) để mua chiếc máy này.
Đó là lần đầu tiên tôi vay tiền nhà băng. Sau đó, chúng tôi đưa chiếc máy ra vỉa hè bên cạnh chiếc máy rang ngô, với mong muốn thu hút được sự chú ý. Đây là một biện pháp mới lạ, một thử nghiệm khác, và chúng tôi thực sự thu được lợi nhuận từ chúng. Chúng tôi hoàn trả được 1.800 đôla trong hai hoặc ba năm, và tôi cảm thấy rất tuyệt vời. Tôi thực sự không muốn người ta nhớ đến như một kẻ mất sạch cơ nghiệp chỉ vì một chiếc máy làm kem.
5 năm đầu tiên ở Newport đã trôi qua và tôi đã thực hiện được mục tiêu của mình. Cửa hàng Ben Franklin nhỏ của tôi đã có được doanh số 250.000 đôla và đem lại 30.000 tới 40.000 đôla lợi nhuận trong một năm. Đó là cửa hàng Ben Franklin số một về doanh số và lợi nhuận, không chỉ ở Arkansas mà ở toàn bộ vùng sáu bang. Nó là cửa hàng tạp hóa lớn nhất tại Arkansas, và tôi không tin là có một cửa hàng nào lớn hơn tại ba hay bốn bang lân cận".
Dưới bảng hiệu Wal-Mart, có hai dòng chữ sau này trở thành phương cách làm việc nổi tiếng: “Chúng tôi bán với giá thấp hơn” và “Đảm bảo thỏa mãn khách hàng”. Trong cuộc đời kinh doanh sóng gió của mình, Sam vẫn giữ vững phương châm ấy.
"Tôi không bao giờ là người dừng bước trước bất hạnh, và khi đó tôi cũng không dừng bước. Người ta thường nói rằng bạn có thể tìm ra sự may mắn ở bất kỳ mọi sự rủi ro nào nếu bạn cố gắng thực sự. Tôi luôn nghĩ rằng khó khăn chỉ là những thách thức, và thách thức trong tay cũng khá đơn giản để giải quyết: tôi phải tự nâng mình dậy và xoay xở với tình thế, làm lại tất cả từ đầu, thậm chí lần này phải tốt hơn", Sam nhấn mạnh.
Theo Diễn đàn doanh nghiệp
Flag Counter