Thứ Ba, 22 tháng 10, 2013

Ông Thái Tuấn, Giám đốc Công ty TNHH Chế biến thực phẩm bánh pía - lạp xưởng Tân Huê Viên: Phận làm thuê của "vua bánh pía"

Cuối tháng 8/2007, tại Khu công nghiệp An Nghiệp (Sóc Trăng) diễn ra lễ khai trương nhà máy của Công ty TNHH Chế biến thực phẩm bánh pía - lạp xưởng Tân Huê Viên. Sự kiện thu hút sự chú ý của nhiều người, bởi mặc dù Sóc Trăng được coi là "thủ phủ” bánh pía của Việt Nam, nhưng đa phần các xưởng, công ty sản xuất vẫn chủ yếu làm thủ công, và đây là nhà máy sản xuất bánh pía - lạp xưởng lớn nhất của tỉnh từ trước tới nay. Thêm vào đó, chủ nhân của Tân Huê Viên là một người còn khá trẻ, xuất thân từ "phận làm thuê” nhưng chỉ sau hơn 10 năm đã trở thành "vua bánh pía" của một vùng đất miền Tây.



Con dao, tấm nhôm và giấc mơ đổi đời

9g30 sáng, bước vào phòng khách trụ sở Công ty Tân Huê Viên, nhìn qua màn hình tivi gắn camera kết nối với toàn bộ các phân xưởng sản xuất và kho xếp hàng, phải một lúc sau mới thấy Thái Tuấn, Giám đốc Công ty Tân Huê Viên, đang tất bật hướng dẫn nhân viên chuyển hàng lên xe container đang xếp một hàng dài trước nhà kho.
Quả là hình ảnh ấn tượng, bởi bánh pía lâu nay vốn chỉ được xem như một loại sản phẩm địa phương thông thường, nhưng nay nó đã được một doanh nghiệp nâng tầm, đưa mức tiêu thụ lên vài trăm tấn mỗi năm, được vận chuyển đi khắp cả nước, kể cả xuất khẩu.
Ấn tượng hơn, đây không phải lần đầu Giám đốc trực tiếp xuống làm cùng công nhân, mà đã gần 20 năm nay, hầu như mỗi ngày Thái Tuấn đều làm việc dưới xưởng tới gần 1 giờ sáng.
Thái Tuấn sinh năm 1968 trong một gia đình nghèo ở thành phố Sóc Trăng. Năm 12 tuổi, Tuấn đã phải nghỉ học, lăn lộn vào đời kiếm tiền phụ giúp gia đình bằng nghề sửa xe.
Hết sửa xe, Tuấn xin vào làm không công cho một cơ sở sản xuất bánh pía ở Vũng Thơm (xã Phú Tâm, huyện Châu Thành, Sóc Trăng), cách nhà vài chục cây số. Làm ở đây, Tuấn chỉ được chủ nuôi cơm hằng ngày chứ không được trả lương như những người thợ khác vì lúc đó Tuấn chỉ mới 14 tuổi.
Miệt mài làm việc nhưng Tuấn không nguôi trăn trở: "Mình phải làm gì để có thể đổi đời?". Để tìm ra câu trả lời, Tuấn chăm chỉ vừa làm vừa học.
Một năm sau, anh được chủ giao cho việc trộn nhân bánh. Công việc vất vả, phải làm quần quật suốt ngày đêm, lương lại không cao nhưng Tuấn không nản chí.
Nhiều đêm nằm vắt tay lên trán suy nghĩ: "Người ta làm được thì mình cũng làm được, phải thử mới biết...". Và Tuấn âm thầm thực hiện giấc mơ đổi đời bằng việc làm hết sức táo bạo: Mua một tấm nhôm, một con dao để... mở lò sản xuất bánh.
Ước mơ đã có, nghị lực cũng thừa nhưng lại thiếu vốn. Khi người anh trai lập gia đình, Tuấn "đánh liều" hỏi mượn anh toàn bộ số tiền mừng đám cưới làm vốn mua: bột, đường, đậu... để sản xuất bánh. Thương em, người anh đồng ý để Tuấn thực hiện ước mơ của mình.
Có nguyên liệu sản xuất rồi nhưng một khó khăn khác lại đến với Tuấn, đó là chưa có khuôn để làm bánh. Lúc bấy giờ, các chủ lò bánh phải tốn rất nhiều tiền để đặt làm khuôn. "Dĩ bất biến, ứng vạn biến", "trong cái khó ló cái khôn", Tuấn có cách riêng của mình: tự làm khuôn bánh.
Chính những người biết Tuấn từ thời đó đã kể, cách Tuấn làm khuôn bánh cũng chẳng giống ai: chỉ một khúc gỗ cùng con dao phay, Tuấn hì hục đẽo gọt, gọt đẽo suốt mấy hôm liền. Không biết bao nhiêu giọt mồ hôi của Tuấn đã nhỏ xuống cái khuôn bánh... khác người ấy.
Cuối cùng Tuấn cũng làm ra được những chiếc khuôn như ý, đẹp không thua gì thợ "xịn" làm. Vậy là ông Trời cũng không đến nỗi bất công khi phú cho Tuấn đôi bàn tay tài hoa cùng óc sáng tạo và đức tính cần cù để bù lại sự thiếu may mắn ngay từ tuổi ấu thơ. Đến nay, khuôn bánh của nhà máy vẫn do Giám đốc Thái Tuấn tự tay làm.
Hôm chúng tôi đến thăm nhà máy, thấy Tuấn đã có sẵn một thùng đồ nghề giống như đồ nghề của mấy bác thợ mộc để tạo khuôn bánh. Tuấn nhanh nhẹn tay cầm dùi, tay cầm đục, đưa nhanh những nét uốn lượn thật khéo léo, trong chốc lát đã hoàn thành một khuôn bánh đẹp với đường nét rất tinh xảo.
Tuấn nói: "Bên cạnh chất lượng thơm ngon, mẫu mã đẹp, phong phú cũng góp phần làm nên thành công của sản phẩm, vì thế tôi không ngừng tìm tòi để tạo ra những mẫu khuôn mới".
"Vua bánh pía"
Chưa bao giờ Tuấn nói là bánh mình làm ngon nhất, sản lượng lớn nhất, nhưng tìm hiểu trong giới làm bánh ở địa phương, hầu như tất cả đều công nhận Tân Huê Viên đang là doanh nghiệp sản xuất bánh pía số 1 ở Sóc Trăng, chiếm trên 50% thị phần. Để nhanh chóng đạt được vị thế này, hẳn nhiên Thái Tuấn phải có cách làm rất khác biệt so với cách làm truyền thống.
Từ chỗ chỉ là một cơ sở sản xuất nhỏ trong phạm vi gia đình, bản thân Thái Tuấn vừa làm chủ, vừa làm thợ chính kiêm luôn người tiếp thị, giao hàng, đến năm 1996, Tuấn đã mở rộng sản xuất, thuê thêm 20 nhân công để tăng sản lượng. Năm 2000, số công nhân đã lên đến 60 người, và hiện nay là ngót nghét 300 người, chưa kể những người làm theo thời vụ.

* Khi mới lập nghiệp, ông có hình dung mình sẽ thành công như ngày nay?
- Những ngày đầu khởi nghiệp rất khó khăn. Bánh làm ra rồi nhưng không biết làm sao tiêu thụ được vì việc buôn bán lúc bấy giờ không mấy dễ dàng, cực chẳng đã, tôi phải mang bánh ra chợ ngồi bán. Bánh của tôi, ai ngửi cũng khen thơm, ai nếm cũng khen ngon, nhưng lại bị chê là... đắt nên ít người mua.
Nhiều bữa, nhìn sản phẩm "mang đến lại mang về”, tôi cảm thấy lo thật sự, cứ đà này chẳng mấy chốc sẽ đổ nợ. Nhiều lúc bế tắc quá, tôi tính hay là cứ làm loại bánh không cần chất lượng, bán giá rẻ để kiếm sống đã, mọi sự tính sau.
Biết ý định của tôi và vốn là người rất trọng chữ tín nên cha tôi đã ngăn cản, khuyên tôi không nên nóng vội, phải kiên trì, chấp nhận lỗ lã thời gian đầu, tiếp tục làm bánh có chất lượng cao phục vụ khách hàng, làm gì cũng không thể "ăn xổi ở thì”.
Như được tiếp thêm sức mạnh, tôi lại tiếp tục công việc của mình ở lò bánh. Và công sức của tôi đã được đền đáp xứng đáng khi thương hiệu bánh Tân Huê Viên được nhiều người từ Nam ra Bắc biết đến, thậm chí còn vượt biên giới sang cả Mỹ, Canada, Úc, Thụy Điển...
* Nhưng để gặt hái thành công đáng kể trong ngành nghề nặng tính thủ công này, ông phải có tư duy hoàn toàn mới?
- Đúng là sau khi cơ sở hoạt động ổn định rồi, trong đầu tôi nảy ra ý nghĩ: Đã đến lúc mình phải bơi ra biển lớn chứ không thể chỉ quẩn quanh trong thị trường nhỏ bé ở địa phương nữa. Nghĩ là làm, năm 1992, cơ sở của tôi đã làm giới chủ lò bánh ở Sóc Trăng "sốc" khi chuyển từ mô hình sản xuất theo mùa sang sản xuất liên tục trong năm.
Trước đó, các cơ sở làm bánh ở đây sản xuất chủ yếu theo mùa, nhiều nhất là vào tháng Tám âm lịch vì là dịp Trung thu, người mua tăng lên nhiều. Nhưng khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, đời sống người dân khá hơn, chắc chắn lượng bánh tiêu thụ cũng tăng, nên tôi mạnh dạn chuyển sang làm quanh năm.
Ban đầu cũng thấy lo, nhưng rồi mọi chuyện đều ổn, thành công như ý muốn. Vào cuối năm 2006, tôi cho ra lò bánh pía nhân thịt nạc sấy và được nhiều người ưa chuộng.
Sự kiện gây thích thú cho nhiều người là trong ngày khánh thành nhà máy, tôi cùng các cộng sự làm ra chiếc bánh pía khổng lồ nặng trên 300kg. Hiện mỗi năm, chúng tôi cung cấp cho thị trường trên 300 tấn sản phẩm gồm bánh pía, bánh Trung thu, bánh in, lạp xưởng...
* Nhưng đỉnh điểm bứt phá của Tân Huê Viên chính là khi ông đầu tư máy móc để sản xuất?
- Năm 2010, tôi quyết định đầu tư trên 22 tỷ đồng để mở rộng nhà xưởng thêm 10.000m2, trang bị nhiều máy móc, công nghệ hiện đại như máy nhồi và cán da bánh pía, máy làm bánh Long Châu, hệ thống tự động làm nguội bánh...
Đồng thời tôi cũng mạnh dạn đầu tư xây dựng điểm dừng chân trên diện tích 1.200m2 gồm 4 tầng có bố trí khu ăn uống giải khát, khu trưng bày sản phẩm, khu tham quan mô hình sản xuất bánh pía thu nhỏ để du khách có thể tìm hiểu, thể nghiệm và thưởng thức sản phẩm.
Thực ra, làm bánh pía đòi hỏi rất nhiều sáng tạo. Bánh pía Sóc Trăng trước đây gói bằng giấy, thời hạn sử dụng chỉ trong bảy ngày, có khi bảo quản không khéo chỉ năm ngày đã hỏng. Tính đến nay tôi đã ba lần thay đổi bao bì.
Ngay trong mùa này, sản phẩm của Tân Huê Viên có một thay đổi lớn: Thay vì tất cả bánh để trong một hộp, khi đã xé ra là phải dùng hết một lúc, thì nay tôi làm bao bì cho từng chiếc bánh để có thể ăn dần. Tôi nghiên cứu hình thức này từ năm ngoái, nhưng chỉ mới áp dụng cho sản phẩm cách đây hai tuần, vì nếu ra sớm sẽ bị "nhái".
* Người sành ăn luôn so sánh giữa bánh làm theo kiểu truyền thống với bánh làm theo kiểu công nghiệp, ông có e ngại điều này?
- Tôi có thể khẳng định, bánh pía làm theo kiểu công nghiệp ngon hơn bánh làm theo kiểu truyền thống. Nếu nói về chất lượng nhân bánh, tôi đã có rất nhiều cải tiến so với làm thủ công trước đây. Còn về năng suất, 100 chiếc bánh làm bằng máy có chất lượng hoàn toàn giống nhau, trong khi làm thủ công thì không kiểm soát được độ đồng đều.
Tôi đã chuyển sang làm bánh pía bằng máy tự động từ hai năm nay, nhưng thực ra cũng không dễ. Thích nghiên cứu nên tôi đã từng bỏ ra 3 tỷ đồng để mua một chiếc máy của Nhật về nghiên cứu, ứng dụng trong hai năm, nhưng rồi cũng phải nhập một chiếc máy khác thích hợp hơn.
Trên thế giới làm gì có nơi nào sản xuất máy làm bánh pía, mà chỉ có máy làm bánh mì, nên khi nhập máy về, tôi phải cải biến cho phù hợp với mục đích sử dụng của mình.
* Một thành công khác của Tân Huê Viên là mới đây ông đã được Saigon Co.op ký hợp tác làm nhãn hàng riêng?
- Đó là lạp xưởng. Chuyện này cũng hết sức tình cờ: Khi tôi đi xúc tiến thương mại ở TP.HCM, một lãnh đạo của Sở Công Thương có dùng thử lạp xưởng của Tân Huê Viên, thấy ngon nên giới thiệu cho Co.opmart.
Rất nhanh chóng, phía Saigon Co.op lập tức cử đại diện xuống tận nơi tìm hiểu và quyết định hợp tác ngay. Giống như bánh pía, tôi cũng là người đầu tiên làm lạp xưởng bằng máy ở Sóc Trăng. Sắp tới tôi sẽ nhập thêm máy cho dây chuyền sản xuất lạp xưởng.
* Khởi nghiệp gần 20 năm rồi nhưng tần suất làm việc của ông vẫn không đổi?
- Nói thực, đêm nào tôi cũng làm việc tới 1 giờ sáng. Tôi lo mọi chuyện từ khâu làm khuôn bánh, nghiên cứu sản phẩm mới, kỹ thuật vận hành dây chuyền sản xuất, và thời gian gần đây là việc phát triển thị trường.
Một tháng, tính ra tôi đi ra ngoài làm thị trường 20 ngày. Tôi nghĩ, làm nhiều việc thì mình mới có tầm nhìn bao quát, mới quyết định mọi việc được nhanh chóng, công việc mới trôi chảy.
Ví dụ, tôi có hợp tác với một công ty ở miền Bắc 5, 6 năm nay nhưng kết quả chưa được như ý, vì trước đây tôi giao cho họ phân phối theo kiểu mua đứt bán đoạn. Khi giao cho họ tự làm, họ lúng túng và làm không hiệu quả vì cách làm quá bài bản, có lớp có lang, đánh một vòng rồi mới quay về với người tiêu dùng.
Còn cách làm của tôi là đi thẳng tới người tiêu dùng, không phải đứt đoạn một khúc lợi nhuận. Chỉ sau hai tháng thay đổi cách làm, thị phần phía Bắc đã tốt hơn rất nhiều.
* Là chủ mà ôm đồm quá nhiều việc như vậy cũng không tốt, ông có thấy thế không?
- Thực ra ở nhà sướng hơn, đi ra ngoài rất cực. Bây giờ tôi cũng bắt đầu ngán nghe điện thoại. Có ngày, một buổi sáng tôi phải nghe mấy chục cuộc điện thoại. Tôi cũng hiểu, khi sếp ở nhà, công ty bán 10, đến lúc sếp ra ngoài mà nhân viên bán được 15 thì mới là tốt.
Tôi đang tập dần cho nhân viên, nhưng vẫn khó khăn, cần có thời gian. Trước mắt tôi đã xác định, bây giờ làm việc phải thoải mái tôi mới làm, chứ không làm theo kiểu "bán thân bán mạng" như trước đây nữa. Điều làm tôi hài lòng nhất là tinh thần làm việc của công nhân.
Tại Tân Huê Viên, cả năm nhân viên chỉ nghỉ đúng một ngày mùng 1 Tết. Thuyết phục được công nhân vui vẻ làm việc hết công suất như vậy là nhờ tôi từng trải qua cuộc sống của một người làm thuê, nên giờ đây tôi rất hiểu công nhân, hiểu họ nghĩ gì, mong muốn gì.
* Xin cảm ơn ông!

LÂM THAO thực hiện

Đường xa không thể độc hành

Là nhà sáng lập Giấy Sài gòn, ông Cao Tiến Vị không khỏi bồi hồi trước những thay đổi lớn trong công ty. Nhưng ông xác định chỉ có M&A mới có thể giúp Giấy Sài Gòn phát triển.

Vừa muốn có tiền vừa làm chủ là chuyện không thể. Vì thế, ông Vị đã phát hành cổ phần cho đối tác Daio để có vốn phát triển Công ty.

Chúng tôi hẹn gặp ông Cao Tiến Vị, người sáng lập và phát triển Công ty Giấy Sài Gòn, tại văn phòng Công ty ở lầu 1, tòa nhà Etown (quận Tân Bình, TP.HCM) vào một ngày đầu tháng 9.

Ông Vị được nhắc nhiều trong giới doanh nhân là một người lạc quan và cởi mở. Và đến nay, ông vẫn là con người như thế dẫu trải qua bao biến cố thời cuộc.
Hồi tháng 8/2013, đối tác Daio Paper Corporation, một nhà sản xuất giấy lớn của Nhật, đã chuyển giao toàn bộ phần đầu tư vào Giấy Sài Gòn sau hơn 2 năm đồng hành. Ông Vị cùng nhóm nhà đầu tư đã bỏ tiền ra mua lại một phần để sở hữu 57,7%.
Còn ông Mai Hữu Tín, một nhà đầu tư trong nước khác, nắm đến 42,3%. Ông Vị và ông Tín cùng thống nhất phân chia lại công việc. Ông Tín giữ chức Chủ tịch, còn ông Vị làm Tổng Giám đốc điều hành.
Từ một nhà sáng lập và phát triển Giấy Sài Gòn trong 16 năm qua, nay chuyển giao quyền tối cao, ông Vị có thoáng chút cảm xúc. Tuy nhiên, với cái nhìn xa hơn, ông cho rằng nếu được chọn lại, ông vẫn chọn con đường mua bán - sáp nhập (M&A) để đưa Giấy Sài Gòn phát triển.
“Chỉ có M&A mới giúp doanh nghiệp Việt tăng tốc nhanh được”, ông nói.
Những bước đi chung

Tài sản và doanh thu của Giấy Sài Gòn tăng qua từng năm
Nhớ lại những ngày đầu khi mời Daio làm đối tác chiến lược, ông Vị vui mừng khôn xiết. Nhưng bên cạnh niềm vui của một ông chủ doanh nghiệp, cũng đã có không ít điều tiếng.
Trước khi Daio vào, Giấy Sài Gòn đã có 2 nhà đầu tư tài chính, một nắm 10% cổ phần Công ty và một nắm 5%. Việc có nhiều đối tác chưa cùng một mục tiêu chung, ít nhất là về dài hạn, khiến không ít người cho rằng ông Vị “tham đối tác” khi chưa xác định mình muốn gì.
Tuy nhiên, có nhìn thấu tâm huyết với ngành giấy của ông Vị mới hiểu được lời ông phân trần: “Tùy từng thời điểm, chúng tôi cần đối tác khác nhau. Bên cạnh nguồn vốn để phát triển các nhà máy, chúng tôi cũng cần đối tác có tầm nhìn xa giúp chúng tôi trở thành nhà công nghiệp giấy, vốn còn hiếm hoi ở Việt Nam”.
Để thực hiện tâm huyết này, ông Vị đã phải hao tâm tổn sức. Năm 1997, khi Việt Nam còn xa lạ với ngành công nghiệp sản xuất giấy, ông Vị đã lập cơ sở sản xuất đầu tiên ở Gò Vấp.
Đất ở khu này được định hình là đất khu công nghiệp và dân cư. Đây là điều kiện tốt để ông phát triển nghiệp riêng.
Nhưng 3 năm sau đó, đất nơi đây lại chuyển thành đất khu dân cư. Nhà xưởng của ông không phát triển được nữa, nên ông đành chấp nhận mất mát và tìm khu đất mới, tính chuyện gây dựng lại từ đầu.

Khâu xử lý giấy tái chế tại nhà máy Mỹ Xuân I của Giấy Sài Gòn - Ảnh: Trường Nikon
Và ông chọn được khu đất khác để tiếp tục tâm huyết của mình. Đó là Khu Công nghiệp Mỹ Xuân ở Bà Rịa - Vũng Tàu và an cư cho đến nay.
Thời gian này, cả nước chỉ có khoảng 300 doanh nghiệp sản xuất giấy trước sự cạnh tranh gay gắt từ các tập đoàn nước ngoài. Trong khi đó, tổng lượng sản xuất chỉ đáp ứng khoảng 60% nhu cầu trong nước, còn lại phải nhập khẩu.
Trong bối cảnh đó, ông Vị quyết tâm dồn hết nguồn lực xây nhà máy sản xuất. Thế là nhà máy Mỹ Xuân I ra đời và sản lượng của Công ty đã tăng lên đáng kể, đưa Giấy Sài Gòn trở thành một trong những nhà sản xuất giấy lớn nhất nước.
Khi nhu cầu đối với các sản phẩm giấy không ngừng gia tăng, Giấy Sài Gòn lại xây thêm nhà máy Mỹ Xuân II. Theo tính toán của Hiệp hội Giấy Việt Nam, tốc độ tăng trưởng của ngành giấy trong giai đoạn 2003-2007 đạt gần 30%, tăng gấp rưỡi so với thời điểm trước đó.
Từ số vốn khởi nghiệp chưa đầy 1 tỉ đồng, nay ông Vị đã đưa Giấy Sài Gòn tiến đến quy mô hàng ngàn tỉ đồng. Đó là một thành công lớn.
Tuy nhiên, để phát triển dài hạn trên quy mô công nghiệp, ông Vị không thể bước đi một mình mà phải cần nhiều đến sự hỗ trợ của đối tác. Lúc ấy, ngoài 2 nhà đầu tư tài chính lớn, đối tác chiến lược Daio đã bước vào.
Tìm được một đối tác thích hợp cũng không phải là chuyện đơn giản. Với Daio, ông Vị và đồng sự đã phải gặp gỡ và tìm hiểu không ít đối tác trong nước và nước ngoài, mới đi đến quyết định chọn đối tác Nhật này.

Giấy tiêu dùng là một sản phẩm chính của Giấy Sài Gòn.
Vì các nhà máy giấy trong nước chủ yếu sản xuất từ nguyên liệu bột giấy mà bột giấy phải lấy từ gỗ, nghĩa là sẽ tàn phá môi trường về lâu dài, nên Giấy Sài Gòn đã chọn con đường khác: lấy nguyên liệu đầu vào là giấy tái chế.
Cách làm này giúp Công ty tận dụng tối đa nguồn nguyên liệu cho 2 dòng sản phẩm chính là giấy tiêu dùng và giấy công nghiệp, không hao phí bất cứ nguyên liệu gì. Đó chính là lý do Daio được chọn vì có cùng công nghệ sử dụng giấy tái chế với Giấy Sài Gòn ngoài kinh nghiệm phát triển lâu đời (từ năm 1943) tại Nhật của đối tác này.
Khi tính chuyện phát hành cổ phần cho Daio, ông Vị đã xác định rõ mình cần gì. “Vừa muốn có tiền vừa làm chủ là chuyện không thể”, ông nói.
Do đó, ông chấp nhận phát hành cổ phần để có vốn phát triển Công ty, đồng thời chia sẻ quyền lực với đối tác và lui về hậu trường chứ không điều hành.
Kế hoạch phát hành cổ phần đã được chuẩn bị trước đó đến 2 năm và khi hợp đồng được ký vào tháng 4/2011 cũng là lúc bản kế hoạch phát triển doanh nghiệp cho 5 năm sau được hoàn tất. Đây là điều hiếm thấy trong việc hoạch định chiến lược ở các doanh nghiệp Việt.
Thế nhưng, rắc rối nội bộ tại Daio từ tháng 9/2011 đã ảnh hưởng đến nhà đầu tư này. Sau đó, tháng 6/2012, Daio bị đối thủ Hokuetsu Kishu Paper mua lại 20% cổ phần, dẫn đến những thay đổi bất ngờ với những người nắm quyền lực cao nhất tại đây.

Lượng tiêu dùng giấy bình quân đầu người tại Việt Nam
Rắc rối này đã khiến mọi kế hoạch của ông Vị đi chệch hướng. “Mọi kế hoạch bị trì hoãn trong 2 năm qua”, ông xác nhận.
Trước diễn biến bất ngờ từ phía đối tác Daio, ông Vị cố tìm giải pháp ổn thỏa cho cả hai bên. “Nhờ các điều khoản hợp đồng đã được thỏa thuận chi tiết, nên vấn đề còn lại chỉ là giải pháp”, ông Vị cho biết.
Sau khi ngồi lại, Daio quyết định rút vốn qua 2 giai đoạn: ngừng các khoản đầu tư và thoái vốn. Theo ông Vị, Daio là một tổ chức chuyên nghiệp nên họ yêu cầu đối tác cũng phải giữ uy tín chứ không thể bán cho ai thì bán. Đây cũng là lý do khiến quá trình thoái vốn mất nhiều thời gian.
Cuối cùng, ông Mai Hữu Tín là người được chọn. Là nhà đầu tư tài chính đa ngành, ông Tín chưa được giới đầu tư biết nhiều về sự đóng góp chuyên môn.
Nhưng rõ ràng, lúc này Giấy Sài Gòn đang cần vốn để tiếp tục vận hành nên việc chọn ông Tín là hợp lý. Bởi như ông Vị nói, không giải quyết được vấn đề tài chính thì không giải quyết được các vấn đề khác.

NGỌC DƯƠNG/NCĐT
Flag Counter